4/12/11

PHỎNG VẤN 20 NGUYỄN VĂN MƯỜI


A20 NGUYỄN VĂN MƯỜI ĐÃ ĐÀO THOÁT
KHỎI NHÀ TÙ LỚN VIỆT NAM



Nguyễn Văn Mười (Mười rụng)


Kính thưa quý vị, chúng tôi được tin A20 Nguyễn Văn Mười, một cựu Thủy Quân Lục Chiến, một cựu lính trấn đảo Sinh Tồn thuộc quần đảo Trường Sa cho đến ngày miền nam gãy súng, đã trải qua hơn 21 năm trong lao tù cộng sản, vừa đào thoát khỏi nhà tù lớn Việt nam, đến tìm tự do tại Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Từ San Jose, phóng viên Kim Anh của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước đã liên lạc được với A20 Nguyễn Văn Mười và thực hiện cuộc phỏng vấn sau đây:

Phóng Viên PTPNVNHĐN: Chào anh Mười, Thưa anh tôi là Phóng viên Kim Anh, của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước từ San Jose, xin chúc mừng anh đã đào thoát khỏi nhà tù lớn Việt nam. Thưa anh xin anh giới thiệu với độc giả của PTPNVNHĐCN sơ lược về nhân thân, về những hoạt động của anh rồi những năm tháng lao tù và hành trình đi tìm tự do của anh được không, thưa anh?

A20 Nguyễn Văn Mười: Dạ thưa chị, tôi là Nguyễn Văn Mười, những người bạn tù thường gọi tôi là Mười Rụng, bởi khi bị bắt, trong thời gian điều tra, cùng với nhiều nhục hình khác, công an điều tra của CS đã đánh tôi một báng súng AK vào miệng, lấy đi của tôi 3 chiếc răng cửa.

Tình Buồn

Từ giã thư sinh đi làm lính trận
Lang bạt giang hồ gối đất nằm sương
Nhớ mái trường xưa với hàng hoa Phượng
Sắc đỏ rụng rơi phủ kín sân trường

Từ đạo quê hương ngập tràn khói lửa
Súng đạn quân thù xé nát làng quê
Thầy cũ, bạn xưa lên đường lánh nạn
Chinh chiến bao năm tôi vẫn chưa về

Rồi một hôm quân hành qua phố thị
Một màu tang phủ lấp mái trường xưa
Phượng xác xơ, tường vôi loang vết đạn
Bóng dáng bạn, thầy khuất nẻo mờ xa

Tôi quay bước hồn xót xa nhỏ lệ
Giữa quê nhà như lạc chốn xa xôi
Thôi từ đây lìa xa nơi chốn cũ
Ngửa mặt nhìn trời thầm gọi... Phượng ơi !

A20 Lê-Phi-Ô
25/04/2011




Lui binh



A20 Lê Phi Ô
I. Mở đầu:
Trận đánh tại Chi Khu Hoài Ðức (Võ Ðắt) và Chi Khu Tánh Linh tháng 12, 1974, Quân Khu 7 Việt Cộng đã sử dụng lực lượng khoảng 2 sư đoàn gồm có: Trung Ðoàn 33 Quyết Thắng, Trung Ðoàn 812 Sông Mao, Trung Ðoàn 4 thuộc Sư Ðoàn 6 VC tân lập.
Ngoài ra, chúng còn có Trung Ðoàn E.211, 2 trung đoàn địa phương thuộc Lâm Ðồng và Bình Tuy, 2 trung đoàn Pháo & Phòng Không và một Tiểu Ðoàn D200 Ðặc Công.
- Tại Hoài Ðức (Võ Ðắt): Việt Cộng tấn công Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân với gần một sư đoàn Bộ Binh và một trung đoàn Pháo tại khu vực Gia Huynh, ấp Chính Tâm 2 và ấp Chính Tâm 1 nằm phía Nam Chi Khu Hoài Ðức từ 10 đến 12 cây số đường chim bay… Mục đích của Việt Cộng là muốn tiêu diệt LÐ7/ BÐQ tại đây để không cứu viện được CK Hoài Ðức. Vị trí pháo binh 105 ly của Pháo Ðội Trưởng Nguyễn Hữu Nhân phải dời vị trí nhiều lần vì VC pháo khá chính xác. Những chiến sĩ dũng cảm Biệt Ðộng Quân đã đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch, bẻ gãy ý định ngông cuồng của chúng, gây tổn thất nặng nề và làm giảm khả năng chiến đấu của Cộng quân (theo tin tức ghi nhận sau trận chiến).

Địa danh của tôi


Ý Cơ ( A20 Vũ Trọng Khải
phu nhân )

Khi còn ở lứa tuổi học trò, trong giờ học môn địa lý, ngồi nắn nót vẽ bản đồ quê hương, hay được thầy chỉ cho xem, vị trí các quốc gia trên qủa địa cầu nho nhỏ, vào lúc đó, mình ao ước, sẽ có ngày được du lịch đến một quốc gia nào khác.

Nhưng bây giờ, vào lứa tuổi không còn trẻ, nghĩ lại, không nơi nào đẹp hơn quê hương mình.

Cuộc đời mỗi người, từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, ai trong chúng ta có hai tờ giấy quan trọng. Để chứng minh cho sự hiện hữu của ta trong cuộc đời này, là giấy khai sinh, trên đó ghi rõ địa danh nơi ta chào đời, và tờ giấy thứ hai, giấy khai tử, trên đó cũng ghi rõ địa danh lúc lìa trần.

Tiễn biệt đồng môn Lại Tình Xuyên



Cánh Bằng Đã Gặp Bóng Mây

Đỗ Tiến Đức

Đám già chúng tôi lại vừa mất thêm một người bạn thân quí. Tin báo về Lại Tình Xuyên đã qua đời khiến bạn bè ai cũng bàng hoàng gọi điện thoại hỏi thăm nhau mà không ai biết gì hơn vì điện thoại của nhà Lại Tình Xuyên không ai nghe. Nhưng không ai dám nghĩ cái bản tin ngắn ngủi từ một đồng môn ở Seattle gởi đi là tin thất thiệt. Thế rồi điện thoại reo, tôi bắt lên, chưa kịp “alô” thì đã nghe tiếng òa khóc của chị Xuyên như tiếng vỡ của chiếc độc bình cổ từ tầng cao rớt xuống: “Anh Đức ơi, anh Xuyên mất rồi. Anh Xuyên bỏ chúng ta mà đi rồi”...

TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC


Hồi Ký 26 năm lưu đày


Thích Thiện Minh

CHƯƠNG 6

TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC:

NƠI RỪNG THIÊNG NƯỚC ĐỘC…

“THUNG LŨNG CỦA TỬ THẦN !”

1. NGƯỜI NỮ ANH HÙNG: THÁI THỊ KIM VÂN

Sau vụ đào tường trốn trại bất thành. Tôi bị cùm quyện suốt ngày đêm, bị cúp thăm nuôi, không được nhận quà gia đình đã hơn một năm, đôi chân teo nhỏ lại và gần như bại liệt, đôi mắt trở nên mờ, thân thể ốm dần. Bất ngờ một hôm có một sĩ quan an ninh đến tại cửa phòng và thông báo tôi phải chuẩn bị đồ đạc cá nhân di chuyển gấp, chưa đầy năm phút sau, họ đến mở cửa, anh em các phòng bên cạnh đến kè tôi ra xe … một chuyến đi xa chưa biết sẽ về đâu?.

Chúng tôi tất cả gồm 21 người, 20 người nam và 1 nữ như sau :

Xuân Trong Mắt Nàng


Bài của A20 Phạm Ngọc Cửu


Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn

Cho đến chừng này tuổi đầu - cái tuổi mà nhiều người nói rằng: gần đất xa trời, tuy cuộc đời đã trải qua trăm cay nghìn đắng, córất nhiều điều muốn nhớ mà không có cách gì để moi ra thì vẫn có những dấu ấn tuổi thơ không bao giờ phai mờ, nó vẫn ngọt ngào, vẫn thanh tao thanh khiết. Nó hiện đến vào cái lúc cô đơn, bốn bề là bóng tối vây bọc, là rét lạnh tê cứng xương da, là cơn nóng ập xuống ngột ngạt, là cái nhức nhối của cái móng cùm cứa vào ống chân, là mùi tanh tửi của phân, nước tiểu... nhờ có nó mà mùa Đông đi qua, muà Hè xuất hiện, tôi đã vượt qua được, sống được để khi cánh cửa sắt nặng nề rít lên với sức lực của tay tù hình sự trẻ tuổi ỳ ạch mở ra, tôi phải nhắm mắt vì ánh nắng đã làm nhức nhối không sao chịu được. Người tù hình sự đã dìu tôi đứng lên để nghe đọc lệnh tha ra khỏi xà lim, sau đó mở cùm và tiếp tục dìu tôi vượt qua khoảng sân rộng của trại giam để về đến chỗ của đội... Anh em đồng cảnh với nhiều cánh tay đón tôi vào chỗ nằm, tôi lả đi, mê mệt, bên tai là âm thanh của tiếng nói quen thuộc mà đã gần cả năm tôi không có dịp nghe...

Gửi người cô phụ


(cảm tác theo TÌNH NGƯỜI CÔ PHỤ thơ của văn hữu Uyên Thúy Lâm)



Em yêu dấu ! nước non mình khói lửa
Nợ núi sông anh khoác áo chinh nhân
Từ giã nhau, sân ga buồn lặng lẽ
Chân bước đi lòng cứ mãi ngập ngừng

Thôi em nhé từ đây mình xa cách
Đời chiến chinh đâu biết được ngày về
Hẹn ngày mai khi tàn cơn binh biến
Anh sẽ về với sông nước, tình quê

Từ thuở ấy anh đi vào sương gió
Chiến y xưa thấm máu bạn, máu thù
Có những lúc dừng quân nơi lũng thấp
Tiễn bạn mình vào giấc ngủ thiên thu

Rồi từng buổi lăn mình trong lửa đạn
Vẫn còn mơ - em… áo trắng sân trường
Anh cầu nguyện lần nào mình gặp lại
Một đóa hoa rừng trên tóc em thương

Mà em ơi ! quê mình còn khói lửa
Giặc thù còn bom đạn ngập làng quê
Đất nước tang thương, tình mình - đành hứa
Hãy để anh đi mai mốt anh về

Ôi ! tháng tư nào trong cơn biến động ?
Em lạc quê người - anh tận rừng sâu
Mình mất nhau tình yêu còn đâu nữa
Anh cúi đầu... gánh hết những thương đau !


A20 Lê Phi Ô
5/2011






Hoài Niệm


A20 Lê Phi Ô

(Trích đoạn một trong những câu chuyện thật xảy ra trong thời chinh chiến.)

……….

9 tháng quân trường,

12 năm chiến đấu,

7 năm trong trại tù “cải tạo” tập trung.


Sống và lớn lên trong lửa đạn, gian lao và tù đày... thời gian đã tạo cho tôi một hình hài già nua... cằn cỗi.


Bây giờ thì bạn bè mỗi đứa một phương, người tình rồi cũng bỏ tôi mà đi... Xen lẫn trong quá khứ kiêu hãnh là một hiện tại... trống vắng, cô đơn và nhiều... nuối tiếc !


Có nhân...! Cố nhân... xa rồi ! Biết đến bao giờ ta gặp lại cố nhân để được sống lại những lúc huy hoàng trong sắc mùa chinh chiến cũ...!!!


“Người ta đi lính mang lon,

Chồng em đi lính mang xoong mang nồi!”


CUỒNG SĨ BÊN SÔNG


Đọc Thủy Hử
Khoái những anh hùng Lương Sơn Bạc
Cung kiếm nát nhầu
Người kẻ chợ lêu bêu
Gã lớn lên
Giữa phố đời bát nháo
Giữa hận thù đốt cháy tuổi trai tân
Một đời gã
Ai chân tình ai tri kỷ
Lắm mồm đen bạc
Chữ nghĩa đa đoan
Đốt rẫy khai hoang
Lau sậy khói mù ngút bãi
Gã chim trời lượn bậy
Kiếm tai ương lên trang chữ nhập nhòe
Một ngày lửa cháy tiêu tháp bút
Gã thấy tim người nhúm cỏ hoang
Trong chính trị thiếu gì tay lừa đảo
Yêu quê hương lòe lọet trăng hoa
Có nhiều đêm gã say mèm cuộc rượu
Nhìn mặt nhau rách nát mà buồn
Thanh kiếm cùn gãy mẹ cán chuôi
Nếu mai kia làm tên lái kiếm
Xoay nhẹ đường gươm tặng bọn bất nhân

CÁI TRỌNG TY




(nguồn: http://caitrongty.wordpress.com/)

Đọc “Lối Cũ Chẳng Sao Quên” của Bích Huyền



A20 Vũ Ánh

Những đoản khúc của người góa phụ can đảm này được cất lên cùng với tiếng thở dài và những dòng nước mắt lặng lẽ trong những đêm thanh vắng, của những ngày tháng cũ, và của cả những ngày tháng hiện tại. Tôi đã nghe những đoản khúc nhẹ nhàng ấy nhiều lần trên làn sóng phát thanh của Đài Văn Nghệ Truyền Thanh và sau này trên các luồng sóng của một vài đài phát thanh khác. Nhưng khi đọc lại Lối Cũ Chẳng Sao Quên của Bích Huyền mới thấy trọn vẹn được bối cảnh những tùy bút mà bà mô tả.

Một điều dễ hiểu: tôi, chúng tôi, cũng như chồng bà đã trải qua, đã sống trong những bối cảnh ấy.

Bởi vậy, những ngôn ngữ mà bà sử dụng trong mẩu ký ức nhẹ nhàng về cả một quãng đời đau khổ của bà chính là một nỗi dằn vặt đối với chúng tôi. Vâng, tại sao chúng tôi lại không giữ nổi một mảnh đất đáng giữ như vậy, để cho sau khi đã hòa bình rồi còn có những người trở thành goá phụ? Không những thế, biến cố và những biển dâu mà chúng tôi góp phần tạo nên, nó đã biến những người phụ nữ như Bích Huyền, cũng như hàng triệu phụ nữ Việt Nam khác phải nối thêm cuộc đời bằng một đoạn đường long đong, cay đắng.

TỬ THỦ




(TIỂU-ĐOÀN 344/ ĐỊA PHƯƠNG và TRẬN ĐÁNH TẠI VÕ-ĐẮC THÁNG 12/1974)



A20 Lê Phi Ô và Trang Hồi ký máu 33 ngày tử thủ



Tin tức từ phòng nhì Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH cho biết: Bắt đầu tháng 11 đến tháng 12/1974 Việt-cộng (VC) sẽ tấn công Tỉnh Phước-Long dồng thời tấn công 2 Quận Hoài-Đức (Võ-Đắc) và Tánh-Linh thuộc Tỉnh Bình-Tuy để cầm chân một số lớn đơn vị của ta để dể bề chiếm Phước-Long.
    Quận (Chi-Khu) Hoài-Đức và Tánh-Linh là 2 Quận cực bắc của Tỉnh Bình-Tuy... phiá bắc giáp Quận Định-Quán thuộc Long-Khánh và Bà-Sa thuộc Lâm-Đồng.

TIẾNG GỌI VIỆT-NAM !



A20 Lê Phi Ô

Mười hai năm lính, bảy năm tù
Hai mươi mốt năm một cuộc bể dâu
Tánh Linh - Hoài Đức rừng Xuân Phước
Lính trận - tù binh bạc mái đầu

Biển Lạc - Núi Ông - cầu Nín Thở
Quân đi quét sạch lũ cuồng điên
Ngờ đâu chớp mắt tinh cầu vỡ
Quỉ lộng hồn oan dậy bốn miền

Long Giao - Suối máu tù trơ xương
Mìn gỡ phanh thây máu đỏ đường
Chiếu rách xác gom vùi gió cát
Mồ chôn vô chủ lạnh khói hương

Vợ bỏ con thơ theo cán bộ
Đồng tiền đánh đổi cả nhục vinh
Hỡi ơi, canh bạc đời... đen đỏ
Mỹ nhân hề... chén rượu tàn canh

Mẹ già ôm áo trận thương con
Hương lính còn vương trận Động Đền
Mù mắt chờ con, con biền biệt
Con về khóc mẹ mộ không tên

Long Hải - Long Điền phu gánh cá
Nặng đôi vai gánh cả giang sơn
Đội cá... mơ... Nữ Oa đội đá
Vá trời... thẹn mặt với non sông

Bao giờ gặp lại cố nhân ơi
Lạc Tánh - Bình Tuy vắng khách mời
La Gi - Võ Đắc - đồi Bảo Đại
Ru thầm tiếng gọi Việt Nam ơi !!

Lê Phi Ô
15/8/2011

Mưa Trên Ngục Tù

Mưa Trên Ngục Tù

Bài nhạc từng được các cựu A20 hát vang trong trại tù
Quán lá xin đăng tải trọn vẹn bài nhạc với sự cho phép cuả
A20 Nguyễn Hưng Đạo
Để nhắc một thời gào thét trên gông cùm ở Trại Trừng Giơí



SAU LƯNG CUỘC XUNG ĐỘT



SAU LƯNG CUỘC XUNG ĐỘT
CỦA HAI BỌN MA ĐẦU CỘNG SẢN ?
Vũ Trọng Khải/Úc Châu

Dưới một góc cạnh nào đó, người ta có những nghi vấn khi nhìn vào cuộc “ĐẤU VÕ MỒM” của hai đảng cộng sản Tàu và Việt hiện nay và cho rằng đó chỉ là một trận chiến giả tạo để đánh lạc hướng đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền của nhân dân hai Quốc Gia này.

Lịch sử đấu tranh của cộng sản đã cho thấy :

“cộng sản luôn luôn khơi động LÒNG YÊU NƯỚC, CHỐNG NGOẠI XÂM ….của toàn dân để bành trướng hoặc củng cố quyền lực đang bị suy yếu …”

Nói cùng thanh kiếm gãy


Mày bảo tao, ưỡn người đi tới
mặc súng thù dí sát sau lưng
mày bảo tao banh tròng mắt đợi
bất kể anh em gục nửa chừng

mày bảo tao mười năm chịu nhục
giữ màu cờ dù chết đừng buông
mày bảo dẫu ruột đau từng khúc
chuyện tháng tư coi như vết buồn

tao nghe mày chịu đau xiềng xích
cố mà quên cái buổi tan hàng
mấy mươi năm nằm không cục kịch
trên đất thù, với những tan hoang

giờ tao mỏi, mày không cho nghỉ
bắt tao chờ ai đó về ngang
trao mày - thanh kiếm cùn, sét rỉ
cho người đi dựng lại giang san

trời đất bao la, người vô lượng
sông núi điêu tàn ngóng kẻ xa
tao lạy sói đầu, cầu bốn hướng
kiếm rỉ thêm cùn ngày cứ qua

tao sẽ chôn mày trên đỉnh núi
cán quay về trấn một phương Nam
để mày thấy giặc từ hướng mũi
ngày ngày máu ướt ải Nam Quan

mày cùn, tao gãy - tụi mình rỉ
trăm năm đã hết cuộc cờ chơi
tao chết, mày tiêu - trời tính kỷ
một lạy cho rồi - kiếm gãy ơi ! 
 
nguyễn thanh-khiết
viết cho ngày 20-07-2011


Gia đình A20 hội ngộ 03-07-2011






Ly rượu phương Nam


Ai chèo qua biển cho ta gởi
một chén rượu buồn của phương Nam
sa trường máu chảy còn ta đợi
có lúc người về dựng giang san

Trại Trừng Giới - ngày này uống cạn
giọt rượu đau nhắc thuở đi đày
rừng Trường Sơn còn bao bè bạn
chết vẫn chờ từ buổi chia tay

mây bay qua biển cho ta gởi
chút tình xưa từ thuở tan hàng
mấy mươi năm người về chưa tới
dặm đường xa, quên một phương Nam

đập vỡ bầu chia nhau ngụm cuối
ngần đó thời gian đã ngủ vùi
đứng lên đi ngó về sông núi
giặc thù còn - rượu uống không vui

gió thổi dùm ta hơi nồng cũ
giọt của tương phùng - giọt chia ly
quán xưa còn đó dù bụi phủ
có kẻ giữ cờ đợi người đi


nguyễn thanh-khiết
03-07-2011






30/6/11

Tiếng nói từ trái tim


A20 Lê Hoàng Ân

Kính thưa quý vị,

Như tôi đã trình bày trong một bài viết trước, tôi không phải là nhà văn, tôi chẳng phải là cái gì cả, nhưng chỉ vì tôi cần nói ra những gì tôi cảm nghĩ, vì không nói ra được thì trái tim tôi sẽ nổ vỡ mất nếu cố giữ kín trong lòng, nên tôi cần viết ra những gì tôi muốn viết.

Chúng tôi làm giấy tờ để ra đi theo diện ODP (làm chui từ năm 1984 và gửi qua Bangkok vì lúc đó chưa có bang giao chính thức giữa cộng sản Việt Nam và thế giới tự do), với những đóng góp về giấy tờ cũng như tiền bạc của thân nhân chúng tôi đã qua Mỹ từ trước, vì đó là quyền lợi của chúng tôi theo hồ sơ bảo lãnh ODP do các thân nhân chúng tôi đảm trách, nhưng sau đó qua những lời thỉnh nguyện của bà Khúc Minh Thơ đại diện những gia đình có thân nhân bị tù đầy trong guồng máy cộng sản đã trình bày hoàn cảnh này lên Tổng Thống Ronald Reagan và được Tổng Thống chấp nhận để chính Tổng Thống ra lệnh cho ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Robert L. Funseth trao đổi với nhà cầm quyền cộng sản để thả và cho chúng tôi ra đi qua Mỹ. Vì vậy hồ sơ gia đình tôi được chuyển từ ODP sang HO. Chúng tôi đã tới Mỹ vào ngày 06 tháng 07 năm 1992. Nếu không có bà Khúc Minh Thơ thì không bao giờ gia đình chúng tôi qua được Mỹ theo chương trình HO, (cao lắm thì theo chương trình ODP mà thôi) và như vậy sẽ phải chờ lâu hơn. Do đó gia đình chúng tôi luôn luôn mang ơn bà Khúc Minh Thơ và những người trong hội “Gia Đình những Tù Nhân Chính Trị” đã trực tiếp hay gián tiếp giúp gia đình chúng tôi.

Cộng Sản Tàu,“Cá nằm trên thớt”




Cộng Sản Tàu,“Cá nằm trên thớt”
 
                                                                                    Vũ Trọng Khải/Úc Châu
                                                                                  28/6/2011
 
Khi nói CS/Tàu như “cá nằm trên thớt”,  người ta nghĩ ngay đến việc CS/Tàu sẽ bị “banh xác” trong một cuộc chiến, dưới một dạng thức nào đó có, thể xẩy ra trong tương lai không xa !
 
 Ý tưởng “Hiểm họa da vàng” ám chỉ sự bành trướng của Tàu, đã có trong ý nghĩ Hoa Kỳ và Tây Phương từ thập niên 50.
 
Nước Tàu phải suy yếu, phải bị chia năm sẻ bẩy như thời Lục Quốc.
Đó chính là mục đích phải theo đuổi của Hoa Kỳ để triệt tiệu “Họa Da Vàng”

mửa máu


hắn chết khi máu trào ra lần cuối
trên bục nằm loang lỗ lạnh buốt xương
quần áo rách bươm phơi dãy xương sườn
manh chiếu nát tặng lại người sống sót

hắn chết giữa mùa đông, trời Phú Khánh
Trường Sơn thở dài rước một sinh linh
hai năm mửa máu hắn cố dọn mình
khi nằm xuống cỏ rừng che nấm mộ

Trại Trừng Giới - ba ngàn người cùng khổ
đang gối đầu với cái chết vì lao
thức dậy, chưa đứng lên máu đã trào
lũ vi khuẩn rủ nhau bay vào gió

thằng úp mặt vào tường ho ra máu
thằng nín hơi cố giữ mạng qua ngày
nhà giam kín bưng nằm xuống sát vai
thần chết đêm đêm về khoe lưỡi hái

Trại Trừng Giới và những cơn sợ hãi
trên thân tù - từng da ngựa bọc thây
cuộc chiến cuối – trời ơi ! đau như vậy
Trường Sơn đành lòng đứng sửng không hay

hắn chết, úp mặt nằm trên vũng máu
giọt máu ngày nào từng bón núi sông
hắn chết không phải vào giữa đêm đông
mà vĩnh biệt khi gà rừng gáy sáng

Trại Trừng Giới những oan hồn lảng vảng
hát nghêu ngao bài hát ứa máu tươi
dãy biệt giam xiềng xích hả hê cười
đám chúa ngục khúc khắc ho từng tiếng


nguyễn thanh-khiết

(viết cho những A20 mửa máu quay về
Nguyễn Hạnh, Phạm văn Hải, Trương văn Tám, Vũ văn Lộ...
và vĩnh biệt những A20 đã mửa máu ra đi)
1983-1986





(Nguồn: Viết Từ Địa Ngục Blog)


CHÚT SUY TƯ



Tống Phước Hiến

 I. Trong tù:

Bọn si điên, say men vai chủ mới
Ngùn ngụt kiêu căng, thăm thẳm hận thù.
Trước mắt ngơm – người là kẻ câm mù,
Nên mặc sức, tung đường gươm ác quỷ.

Bao cơ cực, chôn mình vào mộng mị,
Bao ước mơ, cay đắng dấu trong hồn,
Nơi lao nhục, người đành lấp trí nhân,
Dấu giòng lệ, nuôi sâu niềm thống hận.

Mũi súng đen, lời roi phun nọc bẩn,
Xúng xính cười, bái phục những hoang mê
Tâm thác loạn, hừng hực lửa hả hê,
Bầy ác thú cuồng say cơn thịnh nộ.

Người chưa chết, đã trở thành cổ mộ,
Nên quay về thinh lặng với hư vô,
Nghe lệ đá nâng đôi giọt thẫn thờ,
Cùng cây cỏ thấm chín tầng địa ngục


II. Về nhà:

Ta xót sa, xoa gót em nức nẻ,
Bàn tay nhung nay sạn sỏi hờn oan,
Lệ chảy ngược, bầm tím máu hân hoan
Lòng chân thật đành đào sâu chôn dấu

Con ta đó đuổi nhanh thời thơ ấu,
Mắt lạc loài trắng đục những niềm mơ,
Đời trôi qua dăm mộng ước hững hờ,
Da chai đá, roi đời chờ chực đón.

Bảy năm trời đã trở thành phân bón,
Lửa quê hương trăn trở suốt thâu canh
Nuôi ý chí trổ hoa lá đâm cành,
Hoa và đá bắt tay cùng bụi chuối.


III. Tỵ Nạn

Ta ra đi, xa miếu đền xưa cũ,
Xa con sông, ngọn núi lũy tre làng
Và cũng xa bao man rợ hung tàn,
Nhưng gần lắm những oan hồn đã khuất.

Hãy gom lại những hồn ma u uất,
Cùng chúng tôi xô ngã những điêu linh,
Hãy trổi dậy những thao thức trở mình
Mà một thuở thấm tim gan phế phủ.

Đời không trôi trên lối mòn ủ rũ,
Lời đao ta búa lớn lẫn u hoài,
Giòng lịch sử theo vận nước trải dài,
Hãy bước tiếp như Tiền nhân đã bước

Dấu chỉ đường vẫn mãi là phía trước
Hãy khắc ghi những hung hãn bạo tàn
Hỡi bờ cây bụi cỏ vạn lời than
Hãy gom lại thành triều dâng sóng dậy.

               Tống Phước Hiến



CHA TÔI, NGƯỜI CHIẾN SĨ VIỆT NAM CỘNG HOÀ



CHA TÔI, NGƯỜI CHIẾN SĨ

VIỆT NAM CỘNG HOÀ



                                                                                                    Bài viết của Ý Cơ
         (A20 Vũ Trọng Khải phu nhân)

(viết cho ngày 19 tháng 6)


Đã có quá nhiều những áng văn, thơ, nhạc ca ngợi những chiến công, những hy sinh, trong trách nhiệm Bảo-Quốc An-Dân của người Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Cũng không thiếu những áng thơ, văn, nhất là những ca khúc, nói lên tình cảm đầy ân nghĩa của người hậu phương đối với người Quân Nhân ngoài tiền tuyến, những áng văn chương ấy, cùng với hình ảnh người Quân Nhân QL/VNCH cũng sẽ bất tử trong lòng người dân Miền Nam, đã một thời được hưởng những Tự Do, những Hạnh Phúc thực sự, được đem lại từ chính những hy sinh cao quý này.
Rồi cũng có rất nhiều những tác phẩm văn chương, những ca khúc nói lên nỗi mong chờ ngày đêm của người Mẹ già, của người Chinh Phụ, của Người Tình hướng về người Chiến Sĩ đang ngày đêm đối diện tử thần ngoài tiền tuyến.
Nhưng có lẽ, còn quá ít những áng văn hay ca khúc, nói lên sự thiệt thòi, nếu không muốn nói là bất hạnh, của những đứa con thơ dại trong gia đình mà người Cha là Chiến Sĩ QL/VNCH để lại nơi hậu phương, trong những trại gia binh hay trong những huyện lỵ nhỏ gần nơi người Chiến Sĩ đồn trú. Mà nơi đó, những phương tiện sinh hoạt hầu như rất khiêm nhường cho cuộc sống cần có của trẻ thơ .
 Những nhu cầu vật chất thiếu thốn ấy rồi cũng qua đi theo ngày tháng, nhưng những thiệt thòi, mất mát trong đời sống tình cảm, chắc chắn không bao giờ phai nhạt trong ký ức những người con có Cha, nhưng phải sống những tháng ngày như côi cút !!!
Trong đám trẻ thơ ấy, có tôi, là những đứa trẻ có Cha … Nhưng ….
Hai mươi năm Cha tôi trong quân ngũ.
Cũng có được những năm tháng theo chân Ông qua nhiều vùng đất nước, qua nhiều trại gia binh, tôi cũng dần dần làm quen  với những chiếc giường gỗ, những chiếc bàn học đóng tạm từ những mảnh gỗ thùng đạn, hay từ những thùng quân trang, quân dụng khác ….
Tất cả chỉ có thế, những đồ dùng cho gia đình người lính chiến nơi trại gia binh chỉ có thế !!!
Nó đơn giản đến không thể đơn giản hơn được nữa.
Cho dù những tiện nghi vật chất có thiếu thốn như thế, nhưng vẫn là những ngày hạnh phúc của đời tôi, vì tôi, vẫn hằng ngày được gặp người Cha thân yêu của mình, vẫn được ngồi học trong lòng Ông, vẫn được Ông chỉ dậy làm toán cộng trừ, hay tập viết những bài luận văn ngắn ….
Thời gian hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu !!!
Đã đến tuổi vào trung học, cần nơi ở cố định để việc học không gián đoạn khi phải theo chân Ông, hết từ đơn vị này, đến nơi đóng quân khác.
Tôi trở về Saigon cùng Anh Chị …
Các em tôi cùng Bà Kế Mẫu theo Ông về Quân Trường Dục Mỹ.
Tôi mất Mẹ khi mới lên hai, có ba Anh Em, tôi là Út.
Hết Tang Mẹ tôi, vì thương đàn con còn nhỏ, Cha tôi, Ông quyết định tục huyền với một thiếu nữ khác, nay là Kế Mẫu của tôi. Không biết là tôi may mắn hay được Mẹ tôi phò trợ, để tôi có được bà Kế Mẫu tốt bụng như thế, Bà đã chăm sóc con riêng của chồng như con ruột của Bà ngay khi Bà còn là một thiếu nữ.
Năm ấy, Cha tôi chưa cho chúng tôi có thêm đứa em nào sau khi tục huyền, Ông đã vội lên đường nhập học Trường Võ Bị Liên Quân Đalat, năm 1953.
Nay trở về sống ở Saigon, nghĩa là phải sống xa Cha tôi … Nghĩa là lại trở về như những ngày đầu chập chững đến trường không có Cha bên cạnh, không  được Cha tìm chọn cho ngôi trường như ý Ông …không được Cha nắm tay dẫn đến trường trong ngày đầu nhập học như những trẻ thơ khác cùng trang lứa, bàn tay nhỏ bé của tôi, nằm gọn trong bàn tay người Chú Út trong ngày đầu tiên đến trường khi còn ở miền Bắc !!!
Trên đường, một mình trở về Saigon sống cùng Anh Chị, tôi, một đứa trẻ mất Mẹ từ khi mới hai tuổi, nay lại phải xa Cha lần thứ hai.
Trên đoạn đường từ Nha Trang về Saigon ngày ấy, tôi không cười mà cũng chẳng khóc, thân mình như ngây dại, không cảm giác …
Giờ đây nghĩ lại vẫn cảm thương cho chính mình và những bạn bè cùng trang lứa có Cha là Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Bốn năm sống cùng Anh Chị, học ở Saigon, mỗi năm chúng tôi chỉ được sống bên Ông chừng mươi ngày phép …
Sau khi đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp cũng là lúc Ông chuyển về Pleiku, nơi đây có trường cho tôi theo học chương trình Đệ Nhị Cấp, Cha tôi muốn được chăm sóc con gái của Ông, và Ông cũng hiểu rằng tôi cần có Ông kề bên, Ông đã về Saigon đón tôi lên nơi đóng quân mới của Ông, Tỉnh lỵ Pleiku.
Pleiku, trong căn nhà gỗ ven Thị Xã, tôi đã thấm thía cái lạnh vùng cao nguyên đất đỏ, đã khổ sở chạy theo chiếc nón lá khi có cơn lốc xoáy, cuốn lên cao… bụi đỏ cả chiếc ái dài trắng đồng phục của trường tôi theo học.
Trong bốn năm sống xa Ông, tôi hằng mong được sống bên Ông như những ngày thơ ấu, nhưng nay đã là một nữ sinh đệ nhị cấp, đã có bạn bè khăng khít bên nhau suốt bốn năm chung một mái trường, mang về Pleiku một khung trời nhớ thương bằng hữu, Pleiku vốn đã buồn, lại buồn hơn … Thôi đành …
Được sống bên Cha thì đành xa các bạn !!!
Những thiệt thòi bất hạnh như thế của người con Lính Chiến tưởng như đã hết ?
Không !!!
Những thiệt thòi,
Những bất hạnh ấy,
Vẫn còn theo mãi trong cuộc sống !!!
Sau này, khi cả gia đình chúng tôi về Saigon chung sống, riêng Cha tôi, khi Dục Mỹ, khi Chu Lai …hết nơi này đến nơi khác … những địa danh quá xa lạ với tôi.
Chị Em tôi được Cha nuôi dưỡng bằng những cánh thư xa nhà, bằng tiền lương hàng tháng Ông gởi qua bưu điện….
Chúng tôi đã khôn lớn, mạnh mẽ, sung sướng hưởng thụ những gì Ông dành cho, mà khi đó, tôi chưa một lần hiểu rằng, đó là những hy sinh lớn lao của Ông, khi Ông đã phải đè nén những cám dỗ, những dục vọng thường tình của cuộc sống để bảo vệ hạnh phúc gia đình, cho tương lai chúng tôi.
Những lần Ông được về phép chừng mươi, mười lăm ngày, những ngày ấy là những ngày hội, không chỉ riêng cho gia đình chúng tôi, mà cho cả xóm nơi tôi sinh sống, vì cả xóm này chỉ có Ông là một Quân Nhân.
Trong bộ Quân Phục mầu olive, Ông, cao lớn hiện ra nơi đầu ngõ, Cha tôi đấy … Ông vừa từ tiền đồn, nơi Ông đóng quân trở về Thủ Đô Saigon hoa lệ thăm vợ con.
Cha tôi, một Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, một người hùng, một thần tượng của tôi … có ai nỡ cười khi tôi nghĩ về Cha mình như thế, con hãnh diện về Cha, hay Cha Mẹ khen con cũng chỉ là những tình cảm thương yêu vốn sẵn có của người đời.
Tiếng chào hỏi, hàn huyên, cùng những tiếng gọi ơi ới của đám trẻ trong xóm …. tin Cha tôi về phép đã tràn vào cửa, trước khi căn nhà thân yêu được đón dấu chân Ông.
Chị Em chúng tôi, chẳng đứa nào kịp mang guốc dép, đã ùa cả ra đầu con hẻm, nơi Cha tôi còn đang bị cầm chân bởi những lời thăm hỏi của bà con lối xóm.
Đứa thì giành mang những vật nặng, các em nhỏ của tôi, đứa cầm tay, đứa kéo áo, đứa ôm chân … Kế Mẫu tôi, nét mặt rạng rỡ đứng trong hiên nhà nhìn theo sự mừng rỡ của đàn con … chắc hẳn, đó cũng là niềm vui Bà đang mong đợi. Câu chuyện thăm hỏi của chòm xóm cũng sớm gián đọan vì thế, để trả lại sự đoàn tụ cho gia đình chúng tôi.
Chỉ những ngày như hôm nay, Cha tôi về phép, là ngày hội của gia đình… Kế Mẫu tôi chăm lo chợ búa, làm những món ăn Ông ưa thích để bù đắp cho những ngày hành quân gian nan, cũng để bõ cho công Bà những ngày tháng nhớ thương Ông … trong chờ đợi âu lo…..
Bữa cơm ngày đầu hội ngộ ấy, hạnh phúc xiết bao, Cha tôi không ăn nhiều, chỉ ngồi nhìn mọi người đang mừng vui khi có Ông về, Ông gắp hết những món ăn ngon cho các con, niềm vui bên vợ con, hạnh phúc trong lòng Ông là những hào quang tỏa sáng cả căn nhà, rạng rỡ khuôn mặt chúng tôi.
Những ngày sau đó, Ông đưa chúng tôi đi xem Ciné, đi sở thú, buổi tối thì ra sông Saigon ăn kem, tất cả những gì chúng tôi mong ước, chỉ đơn sơ như thế, hầu như đều được Cha tôi mang đến cho chúng tôi trong những ngày Ông được về phép.
Những lúc chị em tôi đi học, Ông ở nhà, tự sửa sang lại căn nhà cho được nhiều ánh sáng hơn, được tiện nghi hơn đôi chút. Khi chúng tôi về học, Ông vội ngưng mọi công việc để quây quần cùng chúng tôi.
Những giây phút đó ….. Thật hạnh phúc vô cùng.
Những ai đó may mắn không phải sống xa Cha, xa Mẹ, chắc khó có thể hiểu được niềm hạnh phúc này của những người con Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Ngày hội nào rồi cũng tàn, có hợp thì cũng phải có tan !!!
Những ngày phép của Cha tôi sao qua mau quá, tôi muốn níu lại, tôi muốn đánh đổi tất cả những gì mình có, để chỉ mong xin thêm vài ngày nữa được sống bên Ông ….
Nhưng không được nữa rồi …..
Ngày mai Ông phải lên đường trở về đơn vị.
Ông không bao giờ trễ phép, dù ở vào địa vị của Ông, muốn có thêm vài ngày nữa, tôi nghĩ, cũng không phải là khó.
Nhưng, chưa bao giờ Ông phạm lỗi như thế và chắc chắn tôn chỉ cả đời binh nghiệp của Ông là thượng tôn kỷ luật.
Đêm ấy, chúng tôi đi ngủ trễ, mong kéo dài thêm những giây phút bên Ông … Nhưng ngày mai Ông phải đi sớm, cần giữ gìn sức khoẻ, nên chúng tôi cũng đành để Ông nghỉ ngơi.
Nằm trên giường, trằn trọc mãi không ngủ, tôi lén nhìn, theo dõi Ông thu xếp hành trang … nước mắt … buồn… lăn trên gò má mà không hay !!!
Tôi biết, Ông không phải ra sân bay từ sớm, nhưng Ông đã chọn giờ đi sớm như thế, để không phải nhìn những giọt nước mắt của các con Ông … Tội cho Ông phải chờ chuyến bay trong nhiều giờ ….
Sáng Ông đi, Tôi dậy từ sớm, nằm trong màn theo dõi bóng dáng Ông qua lại thu xếp hành trang, nghe Ông to nhỏ dặn dò Bà Kế Mẫu. Tôi muốn choàng dậy ôm chặt lấy Ông, nhưng còn chần chừ chưa dám vì như thế sợ cũng làm Ông buồn trong cảnh chia tay hôm nay, nước mắt vẫn lăn dài trên gò má tôi …. Đến khi Ông xách hành trang lên đường, ra tới cửa, nén lòng không được, tôi không tự kìm hãm được mình … tung màn … chạy theo ra hiên ngoài, ôm chặt cổ Ông, hôn lên má Ông … nước mắt tôi nhoè nhoẹt cả khuôn mặt hai Cha Con.
Hôm nay, tôi cảm nhận được Cha tôi đã già hơn nhiều so với lần về phép trước đây !!!
Tháng ngày qua đi, cuộc sống trải dài nhiều năm tháng, có Cha nuôi dưỡng, có Cha để được thương yêu dậy dỗ, có Cha để ngóng trông ….
Khi còn trẻ, tôi nghe các Cụ nói “ Có con mới biết lòng Cha Mẹ ”
Làm sao tôi hiểu thấu đáo câu nói ý nhị này … Mãi đến khi lập gia đình, có con, chăm nom con đến khôn lớn … Tôi đã thấm thía ý nghĩa sâu sa lời các Cụ.
Phụ Mẫu càng trường thọ, ta càng tích lũy được dồi dào ký ức.
Khi Phụ Mẫu quá vãng, gia tài vĩ đại của ký ức vẫn là hạnh phúc khi nhớ về Mẹ, Cha.
Ký ức ấy luôn là phương thuốc nhiệm mầu vực ta dậy trước những vấp ngã, trước những thất bại khổ đau trong cuộc sống …
Ký ức ấy là vốn quý trong cuộc sống lưu vong này.
Ngày Cha tôi qua đời, khi sắp xếp lại ngăn tủ của Ông, nhìn thấy chiếc mền vải dù, Ông đã dùng nhiều năm trong quân ngũ, tôi lặng lẽ xếp gọn chiếc mền vào vali của mình.
Có một ai đã hãnh diện vì được Cha Mẹ để lại cho một gia tài đồ sộ, cả đời ăn tiêu không hết.
Riêng tôi, hôm nay vẫn hãnh diện để khoe rằng, gia tài Ông để lại cho tôi là “ chiếc mền vải dù ” …Tôi đã mang theo làm hành trang sinh sống nơi xứ người.
Mười bẩy năm sau ngày giải ngũ, Ông đã bỏ tôi về một thế giới khác, nơi đó có Mẹ tôi đón chờ !!!
Đã nhiều năm rồi, mỗi khi thấy một người mặc Quân Phục, hình ảnh Cha tôi lại hiện về trong bộ Quân Phục thẳng nếp, chân mang giầy bốt, đầu đội mũ bê rê nâu, đôi mắt sáng nghiêm nghị … nhưng như đang cười với tôi !!!
Trong hàng quân của Quân Lực VNCH, giữa những Tướng Lãnh tài năng và đức độ, giữa những bạn đồng đội Anh Dũng của Cha tôi và ngay cả giữa những Chiến Hữu thuộc cấp của Ông … đối với tôi … Cha tôi luôn là người oai phong nhất, mặc Quân Phục đẹp nhất … là người luôn sống gương mẫu với Tín Niệm TỔ QUỐC – DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM.
Tôi hãnh diện mà khoe như thế, như khi tôi khoe chiếc mền vải dù là gia tài vô giá mà Cha tôi đã để lại cho tôi.
Tôi cũng hãnh diện để khoe rằng :
“ Tôi là con gái một Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà ” thuộc binh chủng Biệt Động Quân. Ông là một trong hàng trăm ngàn Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã góp sức, dâng công để bảo vệ TỰ DO cho miền Nam Việt Nam hơn hai mươi năm, trước khi miền Nam bị Cộng Sản cưỡng chiếm !!!
Là con của những Chiến Sĩ Quân Lực VNCH, phải gánh chịu những thiệt thòi, những bất hạnh phải xa Cha hay mất Cha của chúng ta …. SẼ … không còn là những thiệt thòi, những mất mát, những bất hạnh … NẾU … chúng ta hiểu rằng chúng ta đã cùng Cha, Anh chúng ta đóng góp cho những ngày miền Nam được TỰ DO ….
Chúng ta, những người con của Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phải được quyền hãnh diện như thế ./.

Ý Cơ.
Một ngày Quân Lực nhớ Cha.
6/2011



Mưa trên trại thù


như những bóng ma chập chờn bên núi
đám tù lết về trại dưới chiều mưa
Trường Sơn trùng trùng, ngày qua ngắn ngủi
đời tù lụn dần theo sáng theo trưa

đêm mưa rớt từng cơn ngoài láng trại
chỗ nằm đau trên bệ đá lạnh căm
những giấc mơ của một thời quan ải
nuôi từng ngày với nỗi đợi âm thầm

gió núi thấm trên thân tù rách rưới
lát khoai khô không bẻ gãy hận xưa
tù nghiến răng trong từng mỗi nụ cười
mười năm oằn oại mối thù chưa rửa

mùa mưa xuống từng ngày trên trại giặc
mưa rớt buồn, mưa rớt giữa Trường Sơn
tù lắng nghe sấm gầm trong khuya khoắc
cái nhớ thành xưa ruột thắt từng cơn

mưa dỗ tù hiên ngang đi vào mộng
áo giang hồ mưa lấm, tiếc mà đau
tù nhắm mắt rơi vào muôn tưởng vọng
mùa mưa xuống trại thù - không qua mau


 nguyễn thanh-khiết
A20 mùa mưa


(Nguồn: Viết Từ Địa Ngục Blog)


* Yên Ly diễn ngâm:







HOA CỎ VÀNG TRÊN XE CẢI TIẾN



HOA CỎ VÀNG TRÊN XE CẢI TIẾN
A-20 XUÂN PHƯỚC.
                           
                                                                                                           Ý Cơ/ Úc Châu
                                                                                                             (A20 Vũ Trọng Khải phu nhân)
               

     Đã mấy tuần lễ qua, thành phố nơi tôi ở, mây đen vần vũ đầy trời, mưa không ngớt hạt, cây cối, thảm cỏ sũng nước, tiếng mưa đêm rả rích lê thê, như những giọt lệ khóc thương người Bạn của gia đình đã đi về nơi rất xa …. Ngàn thu vĩnh viễn không gặp lại.

     Cũng khóc thương cho gia đình Bạn, vì nỗi vắng Anh đã để lại cho vợ con, thân nhân một khoảng trống đau thương quá lớn lao !!!

     Sự ra đi đột ngột của người Bạn thân đã khiến cho ký ức của tôi ngập tràn hình ảnh xưa cũ của hơn 40 năm quen biết nhau.
     Thời gian gần đây nhất, tháng 7 năm vừa qua (2010), tôi vẫn còn thấy hiển hiện những hình ảnh của Anh trong những ngày nắng ấm Cali khi chúng tôi ở bên Anh.
     Hình ảnh ấy, Anh với đôi mắt sáng, tinh anh, khẽ nở nụ cười, tay đẩy chiếc xe lăn làm điểm tựa khi di chuyển… Anh thong thả tưới những chậu cây mà người vợ thân yêu đã trồng thật nhiều, để Anh có cơ hội đi quanh nhà vừa vận động thân thể, vừa có niềm vui giúp vợ chăm sóc những chậu cây, để Chị và các Cháu - ba cô con gái ngoan và giỏi của anh – có được những bông hoa rực rỡ quanh nhà, những bông hoa rực rỡ như nụ cười của Anh luôn giành cho Vợ Con và Bằng Hữu.
      Anh yêu mọi người !!!
     Với thời gian quen biết nhau, có lẽ thời gian thân thiết nhất lại là thời gian Anh và chồng tôi bị tù đầy chung từ Biên Hoà, Chí Hoà, Hàm Tân (Z.30C) rồi A-20 Xuân Phước… có mười năm bên nhau !!!
     Mười năm trong chốn lao tù, nơi đã vắt kiệt sức lực, nơi cướp đi tuổi trẻ của những chàng trai hào khí chất ngất, nơi phẩm giá con người bị chà đạp để thử thách … ý chí vẫn vươn cao.
     Nhưng giữa chốn đầy đọa khốn cùng đó, các Anh đã có những ân tình của bằng hữu cùng cảnh ngộ, đã có những chia sẻ thân thương.
     Những hình ảnh của bằng hữu, những cảnh đời của từng khuôn mặt, bây giờ đã là những kỷ niệm hằn sâu trong ký ức mỗi chúng ta.
     Nói đến kỷ niệm, là nói đến quá khứ.
     Những hình ảnh trong quá khứ được mời gọi trở về, đôi khi đã cho ta nhiều cảm xúc, khi ngọt ngào, khi đắng cay chua xót.
     Đôi khi, bất ngờ trong một khoảnh khắc, cuộc đời đã cho ta những phút giây hạnh phúc, mà những giây phút ấy không bao giờ ta tìm lại được nữa, trong đời …
     Đôi khi, cũng bất ngờ trong một khoảnh khắc, cuộc đời đã cho ta những phút giây khiến lòng ta quặn đau mỗi khi nhớ đến.
     Ôi ! Tại sao có quá nhiều hình ảnh chúng ta phải quên đi, phải chôn sâu, nhưng sao nó vẫn còn đó, hằn sâu trong tim trong óc chúng ta !
     Nhưng cũng cám ơn đời, may mà còn có những hình ảnh khi nhớ lại, chúng ta vẫn thấy xao xuyến, ấm lòng và muốn đem khoe cùng ai đó….
     Tôi cũng có những hình ảnh đẹp muốn khoe cùng Anh Chị !!!

     “ Tôi và người Em Gái của Anh làm bạn đường, trên những chuyến xe đò, trên những toa xe lửa, hay ngồi chờ tầu đêm trên những sân ga heo hút để theo chân các Anh đến tận chốn lao tù … từng trại ….từng trại …. Các Anh đi qua !!!
     Chúng tôi đã có một hành trình mười năm (hay hơn nữa) tìm kiếm, thăm nom… Trên đường chúng tôi đi đã gặp biết bao Bà Mẹ, Bà Chị, Bà Vợ hay các Cô Em cùng cảnh ngộ để được chia sẻ, nâng đỡ nhau thật thân tình, mà tôi nghĩ, có lẽ, các Anh ở trong ấy cũng vậy !!!
     Trên dặm đường dài ngược xuôi, qua vô số những hình ảnh sinh động của cuộc sống lướt trên khung cửa toa xe, tôi đã giữ riêng cho mình một số hình ảnh đặc biệt, mỗi khi nhớ lại, lòng vẫn tràn ngập cảm xúc như sự việc mới vừa xẩy ra.
     Hôm nay, ký ức tôi tràn ngập hình ảnh xưa cũ, qua khung cửa sổ, tôi nhìn thấy những đóa hoa cỏ mầu vàng chung quanh nhà thăm nuôi trại A-20 Xuân Phước.
     Vào một buổi chiều hè năm 1980, sau khi gặp thân nhân, Chị Em tôi được một cán bộ trại cho biết, khoảng 4 giờ chiều sẽ có xe của trại đi qua ga Chí Thạnh, chúng tôi có thể theo xe ra ga.
     Trong thời gian chờ xe, ngồi trong nhà thăm nuôi, khí hậu quá nóng nực, tôi xách chiếc thùng nhôm để làm chỗ ngồi nơi sân trước nhà thăm nuôi, hóng gió dưới một tàn cây, chờ giờ quá giang xe….
     Nhìn vào cổng trại, chỉ thấy được những mái nhà san sát… không hiểu, đó là những căn nhà giam giữ các Anh hay là nơi ở của những người cai tù !!!
     Trời về chiều, nắng vẫn còn như đổ lửa !!!
     Bên kia đường, đối diện nơi tôi ngồi, một đoàn người đang lao động, dường như đang xây cất gì đó …
    Tôi muốn sang thăm hỏi các Anh, nhưng e ngại các Anh bị quy trách vi phạm kỷ luật… nên đành!!!
    Lòng tôi muốn các Anh biết, tôi cũng là thân nhân của các Anh, là Cháu, là Chị là Em của các Anh !!!
    Làm sao đây ?
    Nhìn quanh mình, những hoa cỏ mầu vàng nhiều quá…
    Một thoáng nghĩ …
   Tôi vội vã hái những bông hoa cỏ… kết thành một bó…
   Băng ngang đường, gần đến chỗ chiếc xe “cải tiến”, thấy người canh gác không để ý …
   Tôi đặt bó hoa vào xe rồi tất tả trở về chỗ mình ngồi ….
   Với bó hoa cỏ vàng ấy, tôi muốn gởi lời chào thăm, một lời thương cảm… một lời an ủi… và nhiều hơn nữa… nhiều hơn cả những gì tôi có thể thốt nên lời… Mong sao các Anh trong đoàn người tù khổ sai ấy hiểu được lòng tôi… mà… không chê bai tôi người lãng mạng, vì các Anh đang nhọc nhằn, thiếu thốn trăm điều, còn tôi thì… hoa với hoè !!! …
     Không lâu sau đó, đoàn người, hàng một đi giữa đường về trại… có hai cán bộ cai tù theo sau…
     Đoàn người, các Anh đến gần chỗ tôi ngồi, tôi ngước mắt nhìn từng khuôn mặt thân thương dù chưa một lần gặp gỡ …
     Người đi đầu tiên, trên mũ Anh có cài đoá hoa cỏ mầu vàng, một lời nói khẽ thoảng đến với tôi :
   “Chúc sức khỏe !”…
    Tôi không biết mình đã hái bao nhiêu đoá hoa cỏ mầu vàng ấy…
    Tôi cũng không đếm được đoàn người đi trước mặt tôi có bao nhiêu ?
    Mắt tôi đã nhòa lệ khi nhìn thấy những đoá hoa cỏ mầu vàng được gắn trên mũ, trên vành tai, trên “lon gô” và ngay cả trên xe cải tiến của các Anh…
    Mắt đã nhoà lệ, nhưng tai vẫn văng vẳng nghe người nói:
-         Chúc sức khỏe,
-         Chúc về bình an
-         Gởi lời thăm gia đình
-         ………………

     Nhiều lăm… nhiều lắm…
    Mỗi Anh cho tôi một lời…
    Đủ để tôi hiểu các Anh đã đón nhận lời thăm hỏi và an ủi của tôi, không chê tôi là người lãng mạng…
      Những đoá hoa cỏ mầu vàng hôm ấy, có lẽ còn đáng giá hơn nhiều thứ mà các Anh  đang cần, tôi tự an ủi mình như thế.
     Đoàn người lầm lũi xa dần, vào chốn lao tù, nơi ấy có chồng tôi… có cả người Bạn vừa nằm xuống dưới khung trời Cali nắng ấm !!!
    Các Anh bỏ lại tôi cô đơn bên vệ đường, với hàng lệ còn tuôn rơi trong một chiều nhạt nắng nơi núi rừng Xuân Phước.
Đoàn người ấy ! Các Anh ấy giờ nơi đâu ?
Ai còn ? Ai mất ?
Các Anh có còn nhớ những đoá hoa cỏ vàng năm xưa, tôi gởi đến các Anh với đầy lòng yêu thương ?

Ý Cơ/ Úc Châu
27/5/2011