27/1/11

chút tình với kẻ không may







mày gọi tao chắc khoảng nửa đêm
nói không ngủ được, trời quá lạnh
vết thương xưa đạn còn dăm mảnh
giật từng cơn dưới rét miền Trung
cuối năm tao khó có quà mừng
gởi cho mầy chút gì vui tết
cái thứ nghèo làm tao quá mệt
muốn xẻ chia mà chỉ cười trừ
biết tụi mầy ở đó khư khư
ôm cái nhục, thêm đau và đói
tụi mầy đau làm tao nhức nhối
mà bên ngoài – trời nổi gió đông
tao ở đây còn có chăn bông
mầy áo rách nghĩ mà đứt ruột
thằng Đính hỏi mấy câu khó nuốt
bạn bè xưa thăm hỏi gì không ?
chừng nào tao ra Huế lông bông
ghé thăm nó chỗ căn chòi cũ

                      ***
thôi mình đã đến hồi mạt vận
cùng đường cam tâm ở chỗ này
vết đạn thù nhức bao năm nay
đau thêm mấy thấm gì thân thế
tao gởi cho mầy – quà đến trễ
từ tha phương gom góp làm vui
hãy nhận trên những nỗi ngậm ngùi
dù nó như ân đền nghĩa đáp
cứ cám ơn những người khuất mặt
cám ơn thằng banh xác ngày xưa
đã để mầy đội nắng dầm mưa
trên đất giặc mùa xuân không tới
xin lỗi mầy thằng còn một cẳng
chống nạng nhiều năm như ăn xin
trên Việt Nam ghẻ lỡ cùng mình
dưới căm ghét của người chiến thắng
tội nghiệp mấy thằng ngồi xe lăn
không thể chạy trốn ngày tan trận
bò trên đường quê nhà vạn dậm
hai gối xưng vù thay hai chân
Đào ơi Vàng hỡi, lũ thương binh
tụi mầy sống như là đã chết
gởi tụi mầy, mai mốt này – Tết
cố mà vui hỡi những thằng què 

nguyễn thanh-khiết
30-01-2011

(viết cho những thằng thương binh trên đất giặc)


26/1/11

Ba Tháng Với Những Chiến Sĩ Nông Thôn



Đỗ Văn Phúc



Khoảng ba chục tân sĩ quan vừa tốt nghiệp khoá 3/68 trường Bộ Binh Thủ Đức và sáu sinh viên sĩ quan khoá 1 Đại Học Chiến Tranh Chính Trị đang tập họp đông đủ tại hội trường Tiểu Khu Quảng Trị chờ nhận Sự Vụ Lệnh để đến các chi khu công tác trong ba tháng với các quân nhân Địa Phương Quân và Nghĩa Quân vùng Hoả Tuyến.





Từ trường Mẹ ở Đà Lạt, chúng tôi được C-130 chở về Thủ Đô và sau đó đến trường Bộ Binh nhằm lúc khoá 3/68 vừa mãn khoá. Gần như tất cả Sinh Viên Sĩ Quan khoá 1 tham dự Chiến Dịch Diên Hồng, ngoại trừ một số nhỏ ở lại trường để làm cán bộ huần nhẫn khoá 2 mới từ các Trung Tâm Huấn Luyện đưa về.

Hơn hai năm văn ôn võ luyện ở thành phố sương mù, chúng tôi háo hức chờ đợi một ngày nắng đẹp đầu năm để quỳ xuống sân Vũ Đình Trường nhận lãnh bông mai vàng trên cầu vai và trách nhiệm thử thách lớn lao của những sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị đầu tiên trong Quân Lực được đào tạo một cách quy củ cũng như được trang bị khá đủ những kiến thức về chính trị xã hội cấp đại học.




22/1/11

Đầu năm, nhớ lại chuyện ăn cỏ kiểng trong tù cải tạo !



Vũ Ánh
(01/01/2011)

(Tặng những đồng đội cựu tù cải tạo trại A-20 và các trại khác)

Tôi không nghĩ là những người không ở trại trừng giới A-20 Xuân Phước, một trải cải tạo thuộc vào một trong những trại khắt khe nhất trên toàn cõi Việt Nam có thể biết cỏ kiểng là cỏ gì, tại sao gọi là cỏ kiểng và tại sao chúng tôi lại phải ăn cỏ kiểng. Nói thật với các bạn, gần đây có dịp đọc lại cuốn hồi ký của người tù Hỏa Lò John McCain, trong đó ông cho biết những tù binh Mỹ bị giam ở đây do không hiểu rau muống là gì nên đã gọi rau muống là “cỏ” và họ phản đối ban quản trị đã buộc họ phải ăn cỏ, nên tôi mới viết lại chuyện ăn cỏ kiểng vì một số anh em trong trại A-20 chúng tôi từ thập niên 80 đã phải ăn cỏ thật chứ không phải là “cỏ rau muống” như tù binh Mỹ tại Hỏa Lò. Cỏ đó chúng tôi gọi là cỏ kiểng. 

Quảng Nam - Đà Nẵng tuy gần mà xa



Nguyễn Chí Thiệp


  Nằm trên quốc lộ, làng Thanh Quít cách Hội An 14 km và Đà Nẵng 16 Km tính theo đường cũ qua Liên Trì - Cẩm Lệ, hoặc 22 km tính theo quốc lộ mới qua Ngã Ba Huế - Cầu Đỏ.

Dân Thanh Quít sống bằng nghề dệt và trồng thuốc lá. . . Chợ Vải, trước chiến tranh là trung tâm buôn bán vải, sợi, tơ, bông của vùng bắc Phủ Điện Bàn. Chợ vải có nhà lồng chợ lợp ngói, hai dãy phố, có phố lầu, có cửa hàng tạp hóa, tiệm thuốc bắc của người Trung Hoa. Trồng và buôn thuốc lá là nghề thứ hai. Thuốc lá trồng nơi đây là loại thuốc nổi tiếng cả tỉnh, gọi là thuốc Cẩm-Lệ. Vào mùa Tết âm lịch, cánh đồng thuốc bạt ngàn, bao gồm các làng Thanh Quít, An Tự, Thanh Tú, Hà Thanh, Bích Trâm, Lục Giáp, Viêm Tây, Ngân Căn, Tứ Câu... Rộng hơn cánh đồng thuốc lá Cẩm Lệ nhiều lần. Thị trường tiêu thụ loại thuốc này là Huế, Thừa Thiên và Quảng Trị. Những nhà buôn sĩ người Cẩm Lệ đã thu mua và vượt đèo Hải Vân đưa thuốc lá ra bán cho các nhà chế biến thuốc xắt thành sợi tại Huế, và tên thuốc lá Cẩm Lệ phát xuất từ đây. Sau nầy, nhiều người Thanh Quít chế biến thuốc và trực tiếp bán về Huế, mở rộng thị trường vào Qui Nhơn, Nha Trang, Đà lạt, nhưng cũng không lấy lại tên thuốc cho làng Thanh Quít, mà vẫn phải gọi tên là thuốc Cẩm Lệ như là một danh từ chung. Tên gọi đã thành quen trên thị trường thuốc lá, biết sao?

Bài diễn văn của A20 Lê Hoàng Ân




 A20 Lê Hoàng Ân

Quán lá xin mời đọc, bài nói chuyện của A20 Lê Hoàng Ân tại Viet-Nam Center and Archives thuộc Trường Đại-Học Kỹ-Thuật Lubbock, TX (Texas Tech. University), nhân dịp buổi lễ khai-mạc cuộc triển-lãm và lưu-trữ hồ-sơ của Hội Gia-Đình những cựu Tù-Nhân Chính-Trị do bà Khúc-Minh-Thơ làm Chủ-Tịch vào ngày 28 tháng Năm năm 2008 .

  
Ladies and Gentlemen,
I am very fortunate to have this opportunity to speak with you today. 
When I was a child, my parents always taught me the meaning of the word “Freedom”. In 1954, when I was 12 and-a-half years old, my family left Hanoi in North Viet-Nam to resettle in Saigon, South Viet-Nam in search of this “Freedom”. Once again, in July 1992, my family and I left Saigon for Austin, Texas in search of this “Freedom”.  We are living and enjoying this concept of “Freedom” here in the United States of America.  I hope my family will never have to relocate again to enjoy “Freedom”. 

Cuộc thảm sát thầm lặng



A20 Cái Trọng Ty

Tưởng niệm 30 năm
các Anh Hùng của A20
thoát trại bị thảm sát.
(13/11/1980)

Cuộc thảm sát thầm lặng

Tưởng niệm:
cố Đ/u Đặng Lý Thông -trường SNQĐ
- Tr/u Nguyễn Duy Đức-BĐQ
- Tr/u Nguyễn Ngọc Bửu-TQLC
- Tr/u Trần Lưu Uý-phi công F.5
- Tr/u Nguyễn Hồng Quân-nhà báo QĐ
- Tr/u Nguyễn Văn Minh-TQLC
Gửi đến Lê Thái Chân (kẻ sống sót)

năm ấy nơi núi rừng Xuân Phước
nơi mật khu Kỳ Lộ cuộc chiến tàn
se lạnh mùa đông
khí rừng ẩm ướt
đoàn tù phong phanh áo rách xác xơ
cuốc đất trồng khoai
lao động khổ sai
đi chân đất chốn gai rừng đá sỏi
trong lao nhục chẳng hề khuất phục
vẫn hiên ngang thách thức bọn cai tù

Mừng Giáng Sinh


Qua thành cũ





Tháp cũ ngậm ngùi
trên chót núi

dật dờ đâu đó những hồn oan
vạt nắng bên đèo
trôi lầm lũi
phải chăng tử sĩ khóc dưới ngàn

cỏ lấp dấu giày
cơn binh lửa
xương còn phơi lại đỉnh đèo hoang
chòi canh rêu bám
thành đâu nữa ?
hồn hỡi ! xong rồi một giang san

súng gươm lỡ gãy
đời lỡ bỏ
hận nước, thù nhà trả chưa xong
giữa núi, giữa rừng
xanh màu biển
còn tiếc mà chi, nợ tang bồng

nguyễn thanh khiết
đỉnh Hải Vân 11-2010


Vĩnh biệt Cao Xuân Huy!



(11/17/2010)

Tôi gặp anh lần chót là tại đài SBTN cách đây hai tuần. Lúc đó, Cao Xuân Huy đã yếu lắm rồi, da đã như nghệ vàng, đi phải có người dìu. Chúng tôi bắt tay nhau và lần đầu tiên Huy nói: “Yếu lắm”. Khi nhận được e-mail của Vũ Đình Trọng báo tin Cao Xuân Huy vĩnh viễn ra đi, tôi không ngạc nhiên, nhưng xót. Cái xót xa đến từ nỗi hoài nghi lâu nay trong lòng: Phải chăng những người ngay thẳng và lương thiện như Cao Xuân Huy thì đời gặp toàn sóng gió, khốn đốn? 

Buổi tối, trước khi viết bài này, tôi đọc lại “Tháng Ba Gãy Súng” của anh. Tôi và Cao Xuân Huy chưa phải là đôi bạn thân, chỉ là đồng nghiệp báo bổ, nhưng rất quí mến nhau. Phải sống lâu trong cộng đồng này, người ta mới hiểu lý do tại sao những điều Cao Xuân Huy kể lại trong “Tháng Ba Gãy Súng” đã làm cho một số người không thích, không vui, thậm chí không ưa anh. Anh nói thật quá, sự thật được trình bày rất nhân bản dựa trên những kinh nghiệm mà anh trải qua trong đời lính ở vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến. 

khúc tù ca


ra khỏi trại tù ngỡ ngàng hụt hẫng
quê hương lầm than đoạn đời cơ khổ
gặp lại mày một thời thân áo khố
những ân tình cũ thoáng bơ vơ

đất Huế của mày sao còn bỡ ngỡ
đau xót nhìn cha sống đời bại liệt
những năm tù không một lần được biết
chớp mắt tủi mừng héo hắt bờ môi

đời mẹ nhọc nhằn ngấn lệ bồi hồi
con đã về đây mừng vui tê dại
dưới mái tranh xưa tấm tình thân ái
xóm giềng gần bè bạn thuở xa xưa


mười năm lưu đày trông vời cố xứ
lê chiếc nạng cùn vượt đường ra bắc
đất tù đày lũ ma đói thảm thương
núi đồi hoang vu suối sông dằng dặc

lòng người đổi thay chẳng hợp môi trường
những chị những em xem chừng lạnh nhạt
núm ruột rà quặn thắt đau thương
một gã cùng đường như tên khất thực

vợ chồng mày đêm mặn nồng ân ái
sắp lại đời chung tính chuyện tương lai
những xa cách mười năm cũng đã
mới qua đi cơn ác mộng hôm nào

rồi cuộc đời thường tai ương điên đảo
đói rách lầm than đâu chuyện dửng dưng
mày lại bắt đầu cuộc đời lam lũ
đạp xe thồ lượm nhặt mớ lu bu

nuôi vợ nuôi con ngày khoai ngày củ
vợ tuyệt vọng bởi chồng vô sản
rách rưới bi thương đành dứt sống chung
nàng cũng rất buồn bỏ về Phan Thiết

Huế nắng Huế mưa nặng tình da diết
mày cô đơn chăn chiếu rộng một mình
bữa đói bữa no từng bữa mong manh
cha mẹ qua đời quê nhà tách biệt

gặp em đây cuộc tình sao thê thiết
cũng rộn ràng như thuở mới yêu
xin chút môi em có gì mà ngại
duyên nợ cuối đời năm tháng có bao nhiêu

CÁI TRỌNG TY




Khi ông Trần Thiện Khiêm trở lại với cộng đồng!



(10/08/2010) 

Hồi còn nằm trong tù Cộng sản, anh em chúng tôi thường an ủi và khuyến khích nhau giữ vững tinh thần bằng những “hot news”, một thứ Anh ngữ tự chế để chỉ những tin tức nóng bỏng thẩm lậu từ ngoài vào trại qua con đường thân nhân thăm nuôi. Ở trong nghề, tôi hiểu những tin tức do những bạn tù với tôi đem vào trại sau những lần thăm gặp gia đình là những tin vô căn cứ, nhiều khi buồn cười vì mang nhiều tính khôi hài, do chính các bạn tôi “chế”ra, hoặc do chính thân nhân cũng chỉ nghe tin đồn đại thôi, nhưng vẫn nói cho người thân của mình biết để nuôi hy vọng hầu giúp họ vượt qua những hoàn cảnh khốn khó trong chốn lưu đầy.

Đôi Giày Dũng Sĩ




*Xin cám ơn anh Vũ Đức Nghiêm và anh Nhan Hữu Hậu đã nhắc nhớ và cung cấp bài hát kỷ niệm này. 



Những kỷ niệm trong tù với Chưởng môn Việt Võ Đạo Lê Sáng



A20 Vũ Ánh 
Võ sư Lê Sáng và võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc (phải). (Sài-Gòn 1954)

(09/30/2010)

Tôi biết Võ sư Lê Sáng Chưởng môn phái Việt Võ Đạo tức Vovinam từ lúc còn mới chập chững bước vào nghiệp báo bổ qua lời giới thiệu của một môn sinh của ông lúc đó mới mang chuẩn Hồng đai Nguyễn Đức Quỳnh Kỳ. Sau đó có một vài lần đến võ đường của Vovinam gần nơi tôi làm việc để xem Quỳnh Kỳ dạy võ cho các môn đệ của anh và đến tổ đường Vovinam ở 31 đường Sư Vạn Hạnh để xem Quỳnh Kỳ học võ với võ sư Chưởng môn Lê Sáng. Rồi sau đó, miệt mài với nghề nghiệp, với chiến trường nên tôi không còn hình ảnh nào với môn phái này nữa suốt trong thời gian chiến tranh.

Võ Sư Lê Sáng đã qua đời







***************

Đường về địa ngục



Những cổ xe xếp dài bên rừng Lá
những cái tên được nhắc lại hai lần
hành trang ta mang, ba năm đủ cả
hận, đau, buồn, lẫn chút bâng khuâng


Lên xe ngó một màu rừng đêm tối
ánh sao trên trời chớp chớp tiễn đưa
ta ở ba năm khi đi cũng bồi hồi
con suối, biệt giam, ngày về đã hứa


Ra quốc lộ xe ngược về phương bắc
ánh mắt thăm dò, bè bạn ngó nhau
chỗ này Nha Trang nhìn qua song sắt
ta thở dài Sài-Gòn tuốt phía sau


Lên đèo Cả sương mù che hướng núi
biển sớm mai mờ mờ phía dưới xa
biển bao la, biển chẳng biết ngậm ngùi
ta đang bị đày đi nơi xứ lạ


~*~ ~*~

Xe đưa tù trở mình qua độc đạo
thiết lộ hoang vu nắng hực xuống đầu
bụi đỏ mù bay, mắt nhìn lơ láo
Trường Sơn trùng trùng đá dựng trên cao


La Hai xác xơ, cửa nhà hoang phế
trưa chang chang cỏ cháy dọc đường tàu
những lỗ châu mai như còn kể lể
chiến địa ngày nào, xương trắng rừng cao


Con sông Trà Bương vắt ngang đường núi
vạch một dấu nghẹn ngào chia trần gian
mùa khô xe lăn trên bầy đá cuội
mưa về chỉ duy nhất chuyến đò ngang


Xuân Phước tận cùng A 20 điểm cuối
vùng rừng thiêng nước độc đã bao đời
một ngày và đêm cổ xe tù đầy bụi
dừng bên đường như một chuyến rong chơi


nguyễn thanh-khiết
ngày đầu tới A 20, 05-1980




NHẤT TRÍ




Nhạc ngoại quốc Proud Mary
Lời Việt: Vũ Khoa

1.
Dù đời nhọc nhằn khi trong vòng CẢI HUẤN
Anh với Tôi, Ta cùng quyết tâm PHẤN ĐẤU
Dưới CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG làm ta KHÓC MÃI
Cho nên khi bắt ta KHAI, NHẤT TRÍ ta đừng KHAI dài dòng
AN TÂM (An Tâm), AN TÂM (An Tâm)
AN TÂM, nhưng còn tin MÙ MỜ

2.
Rồi một ngày Ta được PHÂN CÔNG NẤU BẾP
Anh với Tôi, Ta cùng quyết tâm DZŨA CHÁY
Nhưng vẫn coi chừng ANTENT nó đứng đấy
CHÁY vô mồm ta không ÁY NÁY
Cho nên Ta DZŨA no thôi.
NHẤT TRÍ ta đừng đem VỀ NHÀ
DZŨA LÍP (Dzũa Líp), DZŨA LÍP (Dzũa Líp)
DZŨA LÍP, nhưng đừng quên BẠN BÈ

3.
Rồi một ngày Ta được PHÂN CÔNG ĐI KINH TẾ MỚI
ANH với TÔI ta đừng PHÂN VÂN BỐI RỐI
Nhưng vẫn coi chừng ÂM MƯU sắp tới
Cho nên khi bắt Ta đi, NHẤT TRÍ, Ta cùng nhau “Ù Lì”
KHÔNG ĐI (Không Đi), KHÔNG ĐI (Không Đi),
KHÔNG ĐI,  MUỐN LÀM CHI THÌ LÀM


*Một bài nhạc đã đi vào huyền sử của A20, theo giai điệu bản nhạc ngoại quốc Proud Mary, do Vũ Khoa ghi lại theo ngôn ngữ nhà tù và từng được phổ biến rộng rãi, hát hò vang lừng ở A20.

*Cám ơn anh Bùi Đạt Trung... điên, đã nhắc nhở và gửi cho Quán Lá nhạc phẩm nhiều kỷ niệm này .



 

Biệt Cánh Chim Trời







BIỆT CÁNH CHIM TRỜI

Súc đất lâu nay chán lắm rồi,
Sẻng cùn anh thử súc đầu chơi,
Nón cối tung bay người ngã gục,
Bẩy cánh chim trời lướt gió khơi.

Cá chép hóa long bay mất rồi,
Giận cá cũng đành chém thớt thôi,
Chó trận mũ vàng vây tứ phía,
Sát khí đằng đằng lục khắp nơi.

Thôi Các anh đi, đi bình an,
Không ruợu tiễn đưa, chẳng lệ tràn,
Chỉ có tiếng cười thay tiếng pháo,
Chúc anh vượt khỏi mọi gian nan.

Trả các anh về vơí nuí sông,
Núi thẳm rừng xanh mây chập chùng,
Đây những con đường hành quân cũ,
Chốn ấy ngày xưa ta vẫy vùng.

Anh đã ra đi, đi thật rồi,
Con đuờng anh chọn đẹp thì thôi,
Nếu mãi căm hờn trong cũi sắt,
Thà chết phơi thây giữa đất trời.

Gió thổi từng cơn, gió ù ù,
Xuân Phước bây giờ đã cuôí thu,
Ô hay, bỗng thấy lòng sao xuyến,
Có phải vì mưa, mưa mịt mù

Thanh Huyền


Qua Sa Huỳnh nhớ Cái Trọng Ty





Trưa ghé Sa Huỳnh còn nghe biển hát
cát rất mịn màng sao bước chân đau
Trường Sơn mùa tan cơn nóng hạ Lào
khum tay mồi thuốc nhớ người xa xứ


Thuở chiến chinh người từng qua chỗ đó
nóng của cát vàng, nóng của rượu cay
áo mặn mồ hôi, phủi nợ một ngày
Sa Huỳnh đợi có lần người quay lại


Một chút gió phất phơ vài ngọn cỏ
tiếc bước ai qua, Sa Huỳnh buồn hiu
trên đá xanh còn lại lớp rong rêu
trời tháng chín mây đùn quanh đèo ải


Một ngụm rượu xanh thêm màu nước biển
thêm một ly nhớ người đến rồi đi
nắng miền Trung còn đó dấu biên thùy
của vàng đá ngày xanh vừa mới chết


Trưa ghé Sa Huỳnh đứng trông biển lặng
đìu hiu như thân thế một người quen
lớp chiến y khuất trong núi cũ mèm
buồn như gió thổi về từ phía biển

nguyễn thanh-khiết
12-09-2010




Những người tù bất khuất


A20 Nguyễn Chí Thiệp

Thời gian ở tù, tôi cũng có nhiều dịp để khâm phục những người tù bất khuất, tôi đã có dịp nêu tên tuổi ở những phần đầu khi tôi gặp họ ở trại tạm giam. Ở phân trại C này, tôi tiếp tục khâm phục một người khác. Linh mục Phan Thanh Luân; cha Luân sinh quán Phan Rang, cha còn trẻ, khoảng 37 tuổi, bị kết án chung thân vì tổ chức phong trào chống Cộng ở địa phương, vào trong tù cha vẫn tiếp tục chống đối, bao nhiêu lần viết kiểm điểm, cha đều viết vỏn vẹn có mấy chữ “Chế độ Cộng sản độc tài tàn bạo, nặng trừng phạt trả thù, không có khoan hồng”, cha Luân đã bị nhốt xà lim nhiều lần, các cha khác khuyên cha nên nhẫn nhục hơn, nhưng cha đã dứt khoát trả lời cha muốn làm một viên gạch lót đường cho người yêu nước bước lên đi tới. Trong đợt kiểm điểm cuối năm 1982, cha Luân lại chỉ viết như cũ. Cha Luân bị nhốt từ tháng 12-1982 đến khi tôi rời Xuân Phước tháng 10 năm 1986, nhiều người khác đã chết nhưng cha vẫn còn sống, cha đã yếu lắm, lần cuối cùng khoảng giữa tháng năm 1986, an ninh gọi cha ra để viết kiểm điểm. Cha Luân trả lời cha không biết viết. Cha Luân đã quyết chết. Ý nguyện của cha là làm viên gạch lót đường, nhưng không biết có người nào bước lên viên gạch tên Luân để đi được bước vững chắc trong sứ mạng chống Cộng hay không?

21/1/11

Đêm trong vịnh Vũng Rô


chiều Vũng Rô
nước một màu xanh thẳm
sóng êm đềm vỗ mãi
vịnh buồn tênh
đồn đóng chênh vênh
dọc đường huyết lộ
du kích về đây pháo vào chân núi
nghe rào rào như sóng đập ghềnh hoang
trời tháng chạp
biển khơi mù sóng
chiều tối rồi
biển núi sạm màu
đêm tối rồi
biển mờ bóng vạc
điệp một màu
mây vạc hoàng hôn
dặm đường cố xứ
sóng dạt vào bờ áo lụa lân tinh
quạnh hiu bờ bãi
lớp sóng trước
lớp sóng sau
vượt lên cao chới với
như vạn cánh tinh hà
rồi rụng xuống một trời tơi tả
trong hồn tôi
tựa đổ vỡ mong manh
nhìn lại một đời
mây mây khói khói
mây mỏi khói mòn
dã tràng xe cát
cát mệt nhoài lặng lẽ
sóng hoang vu


****

Cái Trọng Ty

 

 

Nguyễn Chí Thiệp: Việt-Nam Khát Vọng Dân Chủ Tự Do




*Sách “Việt-Nam Khát Vọng Dân Chủ Tự Do”
 do tác giả xuất bản tháng 2, 2001
dầy 871 trang, khổ 5 3/8 x 8 1/4 inches, bìa mỏng.

"KHÔNG THÍCH CỦA NÀO TRỜI TRAO CỦA NẤY" (Part 1)



A20 Bùi Đạt Trung (BĐT/BĐ/Người nhái K25)

Đặt bút xuống viết những dòng chữ này đối với tôi là cả một "công trình vĩ đại". Từ khi đặt chân lên xứ người bận lo "cầy cấy" và với những phương tiện hiện đại, khi cần liên lạc chỉ việc nhắc phone hoặc email là xong, nên viết lách là cả một vấn đề xa xỉ phẩm.

Nhân dịp NQ12 với chủ đề “Những Dấu Chân Kỷ Niệm” và với tư cách “biệt đội trưởng, biệt đội người nhái”, vì mang chức “TRƯỞNG” nên phải bấm bụng trồi lên mặt nước đi họp và báo cáo sinh hoạt của mấy tên "thuộc hại" mà trong đó điển hình có một tên phù hợp với tựa đề của bài này.


Nguyễn Thanh Long, K25


Những nhân vật ....


A20 Nguyễn Chí Thiệp

Xuân Phước - Tháng 9/1979

 ..........
1.
Chỉ có một ngày di chuyển, buổi tối chúng tôi đến trại Xuân Phước. Đó là một trại ở vùng nước độc chuyên giam giữ tù hình sự. Ở tù chung với tù hình sự là một điều không may mắn, một thành phần quá ô hợp và phức tạp, đa số chỉ sống theo bản năng, mặt khác cán bộ coi tù hình sự quen thói đối xử tàn bạo hơn là đối với tù chính trị.

Chúng tôi được chào đón tận tình ở trại, chỉ có 30 người tù được hơn một chục cán bộ xét kiểm đồ vật trước khi nhập trại, thuốc men, thức ăn đều bị tịch thu. Cán bộ giải thích, ở trại tổ chức ăn uống tập thể, không phân chia vì phân chia thức ăn là vết tích của tư sản, nặng đầu óc tư hữu và trại sẽ lo cho “đầy đủ”. Vấn đề gia đình thăm gặp, thời gian đầu tạm ngưng, trại sẽ cứu xét tùy thái độ chấp hành cải tạo.

Vidéo Xuân Phước ngày nay



Chia sẻ từ A 20 Nguyễn Văn Lưu, Bình Long VN. Vidéo do Thầy Hùng một cựu tù A20 thực hiện .

Mời xem:

Xuân Phước ngày nay – Vùng Đất Trại Cải Tạo A 20







Vidéo những sinh hoạt của các cựu A20 VN



Chia sẻ từ A 20 Nguyễn Văn Lưu, Bình Long VN:


Xin bấm vào đây:


- Đám tang A20 linh mục Trần Văn Nguyện. Phần 1



- Đám tang A20 linh mục Trần Văn Nguyện. Phần 2



- Đám tang A20 Nguyễn Văn Đoan




bến sông Cai Hạ



trời tháng ba
theo quân rời biên trấn
ghé tạt bên đường
quán lá liêu xiêu
cửa khép tiêu điều
bốn bề đất chết
đứng bơ vơ súng nổ bìa rừng
tháng ba bỏ ngõ cao nguyên
phố phường bát nháo
lớp sóng người tháo chạy quàng xiên
dặm đường vô vọng
chạy về đâu
rừng sâu vây khổn
buổi chàng đi
thưở nón xanh rừng úa
bước cùng đường tử biệt nghẹn ngào
chàng đi vườn ổi mùa ươm nụ
hoa thơm dìu dịu
mảnh vườn xưa
hôm qua đầu ngõ
hoa phượng rũ
rơi lạnh hiên chiều
xác đỏ buồn hiu
nhớ hôm triệt thoái, quân di tản
bạn chàng chết gục lên tháp súng
vuốt mắt người
đốm lửa cháy hờn căm
gió rừng xoáy lốc
qua ngàn dặm
hồi kèn vĩnh biệt
kẻ hào kiệt chết theo thành
mưa sụt sùi chiều bến sông Cai Hạ
trước mặt trùng trùng
dặm người nhếch nhác
con đường vô vọng về phương Nam
mưa như đổ nước chiều tối xạm
tiếng gọi hồn nghe gió thoảng bên sông

Cái Trọng Ty




Luận bàn về "sống" như thế nào



Võ Sư Chưởng Môn LÊ SÁNG
 

Cuộc sống có nhiều cách. Ở đây trong phạm vi võ thuật và võ đạo, chúng ta tạm phân ra 2 cách sống:

- Sống yêu cuộc sống.
- Sống bám viú lấy cuộc sống.

Sống yêu cuộc sống là sống với tất cả lòng nhiệt thành, hăng say, ưa hoạt động của con người muốn sống cho ra sống, muốn hưởng được hương vi và ý nghĩa của cuộc sống, tức những con người muốn sống thỏa hiệp với mọi người, cùng với mọi người làm việc, đấu tranh và xây dựng, luôn luôn hướng về đích sống cao đẹp: phục vụ con người.

Sống bám víu lấy cuộc sống là sống với tâm trạng của kẻ "Sinh bất phùng thời". Bất mãn với cuộc sống mà không cách nào vượt thoát ra ngoài cuộc sống được. Do đó, họ tự tạo ra những nhu cầu giả tạo, rồi tự dối mình, chạy theo ảo ảnh, làm nô lệ cho lòng tham dục của họ. Họ lạc lỏng, bơ vơ trong cuộc sống. Họ chán sống mà cũng không dám chết. Họ ngụp lội trong lầy lụa, trong khổ đau mà vẫn bám lấy cuộc sống.


Chút Tình Nghĩa Cũ


(gửi Khiết)

Xin gửi bạn một ly café nhỏ
Chứa chút tình nghĩa cũ nhớ quê hương
Thương bạn ở lại còn đầy gian khó
Mặc tương lai cho lũ thú gạt lường

Người ra đi dẫu tung hoành khắp hướng
Cũng chưa đủ lực hái những ước mơ
Bởi nhược tiểu sói mòn bao lý tưởng
Tháng năm trôi theo khắc khoải đợi chờ

Nhưng không thế ta lại đành bỏ cuộc
Vẫn miệt mài đơn độc thách phong ba
Sống với lời nguyền, trọn tình Tổ Quốc
Mặc thế thời – cho còn ta với ta

Chút tình ấy làm hành trang cho bạn
Hãy vững tin trời không phụ mình đâu !
Luật tử sinh sau ngày dài hạn hán
Mưa sẽ về làm ruộng lúa xanh mầu

Trường Giang – Nguyễn Tú Cường
18/8/2010



Những người từng có một thời trẻ!


    A20 Vũ Ánh

Trương Văn Tám tự “Tám Chùa” dù ngày hôm nay phải có một vài công việc quan trọng cần giải quyết và phải chuẩn bị cho đứa con lên học đại học ở Sacramento cũng đã lấy vé máy bay vội vã xuống quận Cam để gặp Ngọc “đen” từ Virginia về Arizona thăm bố nhưng cũng hăm hở vượt một đoạn đường dài để về gặp “Chùa” và “Hải Bầu”...

Họ mới chỉ là 3 trong số những sĩ quan rất trẻ tuổi trong quân đội VNCH thuộc những binh chủng khác nhau, đang hừng hực sức chiến đấu thì “gãy súng” ngày 30 tháng 4, 1975. Gãy súng nên phải tù đày trong các trại giam Cộng Sản. Thời gian tù đày, chúng tôi gặp nhau trong những cảnh ngộ, đứa ở trại này, đứa ở trại kia, đứa ở ngoài Bắc, đứa trong Nam. Dường như trên khắp đất nước chúng tôi vào thời ấy đều có những trại giam.

Tù Oán


Mười mấy năm hao gầy ngóng trông
Mưa khuya trăn trở gió mênh mông.
Suy tư dằn vặt nhầu chăn gối
Hoài bão tan tành thẹn núi sông.
Tủi với tiền nhân ca chính khí,
Ngượng cùng hậu thế luận anh hùng.
Tuổi tri thiên mệnh, hờn vong quốc.
Oán Cộng thù không đạp đất chung.



Đêm Tù

Khuya sâu thăm thẳm tối như mồ,
Trằn trọc trên sàn nứa mấp mô.
Phổi yếu đêm nằm ho sụ sụ,
Thận suy sớm dậy đái tồ tồ.
Muốn no thì uống thêm gô nước,
Bụng đói thèm ăn một bắp ngô.
Thao thức đêm dài mong đợi sáng,
Có vì sao lạnh chiếu bên hồ.

                   Vũ  Đức Nghiêm


Chuyện Người Vợ Tù Cải Tạo


Người viết: Dương Thị Năng
(phu nhân của A20 Vũ Đức Nghiêm)

Tháng 4-1975, ngày giặc Cộng vào cưỡng chiếm miền Nam, ngày oan khiên nghiệt ngã nhất trong lịch sử Việt nam hiên đại. Chồng tôi, một sĩ quan cấp Tá, Quân lực Việt nam Cộng hoà, cũng bị đi tù, và kể từ 15 tháng 6 1975, gia đình chúng tôi bị tan tác, chia lìa, một mình tôi phải chịu trách nhiệm nặng nề nuôi dạy bẩy đứa con, đứa lớn nhất, 19 tuổi và nhỏ nhất mới lên 8.

Ngày chồng tôi đi tù, anh đang ở Sài gòn, gia đình ở Đà lạt nhận tin anh sẽ đi trình diện ngày 15 tháng 6 và nhắn tôi về Sàigòn, nhưng thư đi chậm, tôi về tới nơi thi đã quá muộn, anh đã đi trước một ngày.