22/1/12

TRIỆT THOÁI




A20 Lê Phi Ô

(Những cứ điểm mà việtcộng cần phải triệt-hạ trước khi tiến đánh Xuân-Lộc, Long-Khánh)

I/ Tháng 12/1974 Việtcộng mở chiến dịch "Tánh-Linh & Hoài-Đức" với mục đích đánh chiếmhai quận Tánh-Linh và Hoài-Đức thuộc tỉnh Bình-Tuy. Nếu thành công chúng sẽ cắtđứt được Quân-khu II và Quân-khu III tại cây số 125 thuộc Quốc lộ 20 đường điĐà-Lạt và chúng cũng sẽ kiểm soát được ngã ba Ông Đồn nằm trên Quốc lộ I đây làcon đường huyết mạch đi các tỉnh miền Trung, đồng thời bao vây và cô lập trướckhi đánh chiếm thị xã Xuân-Lộc cửa ngỏ vào Saigon.

Nhưng ý đồ của việtcộng thất bại vì chúng chỉ chiếm được quận Tánh-Linh nhưng không chiếm đượcquận Hoài-Đức. Vì thế, Quân khu 6 việt cộng xin bổ sung thêm 2,000* quân (*tàiliệu của Dr. Nguyễn-đức-Phương tác giả "Chiến-tranh VN toàn tập").Việt cộng tương đương cấp sư-đoàn mở cuộc tấn công Hoài-Đức đợt II bắt đầu từtuần lễ thứ nhì của tháng 03 năm 1975, lực-lượng phòng thủ của ta ban đầu gồmcó tiểu-đoàn 369/Địa Phương phòng thủ nội vi chi-khu, tiểu-đoàn 3/43 thuộcsư-đoàn 18/BB tăng phái đóng quân tại phi trường L.19 nằm về phía tây củachi-khu 1,000m. Khi áp lực địch trở nên quá nặng, tiểu-đoàn 344/ĐP đang nghỉdưỡng quân tại tỉnh lỵ sau trận đánh tháng 12/1974 được lịnh khẩn cấp nhảy vàoHoài-Đức để tăng cường phòng thủ (cũng trong thời gian này việt cộng với nhiềutrung-đoàn chúng tấn công quận Định-Quán thuộc tỉnh Long-khánh). Địch quân vớiquân số nhiều hơn ta năm lần với hỏa lực yểm-trợ của cả một trung-đoàn pháo,trong khi đó phía ta chỉ có vũ-khí cơ-hữu của mỗi tiểu-đoàn. Hoài-Đức(Bình-Tuy) và Định-Quán (Long-khánh) thất thủ rạng sáng ngày 20 tháng 03 năm1975.

II/ LUI BINH: Sau khicứ điểm chi-khu Hoài-Đức bị địch tràn ngập, tôi cố gắng liên lạc với cánh B củatôi, đồng thời liên lạc với các cánh quân khác gồm có TĐ3/43/BB, Bộ chỉ huychi-khu, trung đội Pháo binh 105 ly nhưng không nơi nào trả lời, tôi đoán làcác đơn vị bạn bị thiệt hại nặng nên mới mất liên lạc như thế và lợi dụng việtcộng ngưng tiếng súng, cánh A do tôi chỉ huy đoạn chiến... lùi lại đồi đá thậtnhanh để sẳn sàng trận đánh cuối cùng.

Kiểm soát vũ khí đạndược, chỉ đủ để cầm cự được vài giờ vì không được tiếp tế. Chung quanh tôi bánkính khoảng 70 cây số không có bạn, không có pháo binh và phi cơ yểm trợ, mọiliên lạc vô tuyến đều im bặt, tôi mất liên lạc hẳn với cánh B... lương thựccũng chỉ dùng được hai ngày, nước uống rất khan hiếm vì mùa nắng... và đang bịđịch bao vây kêu gọi chúng tôi đầu hàng !

Tôi khẩn cấp cho tu bổhệ thống phòng thủ nhưng vẫn sẵn sàng di chuyển bất cứ lúc nào. Tiểu đội Tìnhbáo còn được 7 người do sĩ-quan trưởng ban 2 tiểu-đoàn chỉ huy chia làm haitoán nương theo đường thông thủy trườn xuống đồi theo hướng tây, hướng nầy toàngai tre và trũng nước... nhiều đoạn phải bò sát đất nên việt cộng không thểphục kích ở đây được. Nhưng đây là tử địa, nếu địch phát giác mà nã pháo vàothì chỉ có chết... không cách nào vùng vẫy được. Đến 06:00 giờ chiều các toáncảnh giới báo đã vào vị trí an toàn, hoàn toàn không có dấu vết của địchquân... tôi mừng rỡ vì đây là con đường thoát hiểm duy nhất. Nhưng muốn thoátbằng lối nầy không phải là dễ, tuyệt đối không được gây tiếng động và cũng cầnphải rút thật nhanh, đoạn đường tử-thần này dài gần 1.000m. Tôi ra lịnh haitoán cảnh giới này bám sát trận địa, mỗi một sơ hở cánh A chúng tôi chắn chắnsẽ bị xoá sổ.

7:00 giờ tối, cảnh vậtbắt đầu lờ mờ, tôi cho gài mìn Claymore và lựu đạn tối đa xung quanh khu vựcđóng quân, tất cả lều võng đều giữ nguyên để địch không nghi ngờ mình bỏ đồi,chọn một tiểu đội tình nguyện ở lại và sẽ rút sau khi có lệnh.

8:00 giờ, trời tối đennhư mực, chúng tôi bỏ đồi, từng người một nhẹ nhàng nương theo cỏ tranh trườnxuống như một đàn rắn. Di chuyển được 500 thước, tôi bấm ống liên hợp ra hiệucho tiểu đội còn trên đồi rút bỏ... đến khi tiểu đội này theo kịp, tôi cho cánhA tiếp tục di chuyển. Nửa đêm chúng tôi thoát khỏi rừng tre và tiếp tục dichuyển thêm 500 thước thì dừng lại. Phía đồi đá, nơi chúng tôi vừa rút bỏ cótiếng mìn claymore và lựu đạn nổ... ngưng chừng 10 phút lại có tiếng mìn và lựuđạn nổ, nhưng lần nầy lại có cả tiếng súng AK.47 nổ vang cả góc rừng, tiếp theolà tiếng hò hét xung phong. Tôi gọi các cánh quân của tôi để xác nhận thì khôngai chạm địch cả, có thể các cánh quân của VC khi tấn công lên đồi đã ngộ nhậnmà bắn lẫn nhau, như thế càng tốt.

Mờ sáng ngày 21/03/75tôi cho rải mỏng quân với hy vọng đón nhận được quân bạn thất lạc... nhưng chođến chiều chỉ nhận thêm được 20 người thuộc gia đình quân nhân và vài ngườilính của chi khu vẫn còn súng đạn. Không thể chần chờ thêm nữa, để đánh lạchướng địch, tôi cho cánh A nhắm hướng chính Tây di chuyển, gần nửa đêm chúngtôi gặp sông La-Ngà ranh giới giữa Bình-Tuy và Long-khánh, tôi cho chuyển hướngchính Nam (dọc theo sông La-Ngà) tiếp tục đi cho đến mờ sáng, như vậy chúng tôiđã đi xa khỏi vòng vây của địch hơn mười cây số. Tôi lại lấy hướng Đông Nambăng qua tỉnh lộ 333 thuộc ấp Trà-Tân 2 (nơi đây cách hơn hai tháng trướcLĐ7/BĐQ đã chạm nặng với địch) hướng này sẽ về căn cứ 6 nằm trên Quốc lộ I cáchđây 60 cây số. Đến 9:00 giờ sáng chúng tôi gặp suối Gia-Huynh, mùa này nước cạnnên cố đào để lấy nước... ăn uống qua loa rồi tiếp tục lên đường.
Khoảng 2:00 giờ trưachúng tôi gặp đường rầy xe lửa ga Gia-Huynh với những toa tàu còn sót lại, cảnhvật hoang phế vì lâu năm không có bóng người. Nhà ga, toa tàu và đường ray cỏvà giây leo mọc che kín, nơi đây là vùng hoạt động tự do của việt cộng từ khiđường xe lửa không còn xử dụng, tôi cẩn thận chia đoàn quân làm hai cánh. Đến5:00 giờ chiều gặp vài đường mòn đầy vết giày và dép râu của địch. Đi thêm nửagiờ trời bắt đầu nhá nhem tối... phía trước có nhiều tiếng động khả nghi, tấtcả trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Trong tình thế di tản chiến-thuật đơn độc,tôi cố tình tránh né giao chiến với địch, vừa đổi hướng tiến quân, bất ngờ mộttoán việt cộng đã nhìn thấy chúng tôi nên bắt buộc chúng tôi phải nổ súng.

Tiếng súng giao tranhnổ vang cả một góc rừng, tôi cho lịnh xung phong bất kể địch quân là bao nhiêu,những tên việt cộng gần nhất bị bắn hạ ngay loạt đạn đầu tiên... chúng tôi đánhtràn qua thuận đường rút lui. Trên chiếc xe Truck chứa đầy thùng gỗ không biếtvũ-khí hay lương thực vì trời quá tối, xác vài tên việt cộng nằm vắt ngang... mặckệ chiến lợi phẩm, tôi chỉ tịch thu một chiếc cặp da chứa tài liệu và phóng đi thậtnhanh. Vì đêm tối, chúng tôi sợ lạc nhau nên chỉ đi một hàng dọc, cả hai cánhliên lạc chặc chẽ với nhau, đoàn người cứ lặng lẽ đi như những bóng ma. Gần nửađêm, vì quá tối nên chúng tôi dùng những mảnh cây mục có lân tinh cắm vào ba lôđể người đi sau nhìn thấy người đi trước cho khỏi lạc. Khoảng 03:00 giờ sángchúng tôi dừng lại nghỉ vì quá mệt, đến 05:00 giờ sáng lại tiếp tục di chuyển.

Cuộc chạm súng lúcchiều coi như chúng tôi đã bị lộ, tôi biết chắc là địch sẽ truy kích, vùng nàytừ nhiều năm nay là của bọn chúng, nơi dưỡng quân của trung-đoàn 33 Quyết thắngVC, chúng tôi phải thoát ra khỏi đây thật nhanh. Tôi cho lịnh đại-đội 1/344đại-đội trưởng là trung-úy Quảng (gốc TQLC) cùng đại-bác 57 ly, cối 81 ly (cảhai đều hết đạn) với 20 người dân cùng đại-đội Chỉ-huy đi trước sau khi đã dặndò những điểm tập trung trong trường hợp thất lạc nhau. Tôi và đại-đội 2/344của trung-úy Vương đi sau để cản hậu trong trường hợp bị địch tập kích.

06:00 giờ sáng ngày22/03/1975 rừng còn mờ sương, cánh quân đại-đội 1/344 vừa di chuyển được 15phút thì chạm địch... bọn việt cộng bỏ chạy, tôi đoán đây chỉ là tổ báo độngcủa địch, như thế chúng tôi lại bị lộ lần nữa, chắc chắn địch cố truy lùng đểtiêu diệt chúng tôi, một trận ác chiến sẻ không tránh khỏi. Tôi cho đại đội1/344, đại-đội Chỉ-huy và 20 đồng bào chạy thoát thật nhanh, tôi và đại-đội2/344 của trung-úy Vương mở cuộc phục-kích chớp nhoáng... chờ địch.

Đúng như dự đoán, bọnviệt cộng đã theo kịp và một cuộc chạm súng ác liệt xảy ra. Vì đã chuẩn bịtrước nên chúng tôi đốn ngã từng đợt việt cộng xuất hiện dễ dàng. Việt cộngmuốn trả thù đồng bọn bị chúng tôi giết chết ngày hôm qua nên bọn chúng cứ tràntới, ngã lớp này lớp khác lại tiến lên như loài thiêu thân, xác địch nằm chồnglên xác lính của ta. Trở ngại lớn là chúng tôi không còn nhiều đạn, không cótiếp viện, không có phi pháo yểm trợ, mọi liên lạc đều bị cắt đứt... nếu tiếptục giao chiến chắc chắn sẽ bị địch tiêu diệt !

Lợi dụng khoảnh khắcáp lực địch tương đối yếu, tôi cho đại-đội 2/344 thành lập nhiều tổ tam"tam chế", áp dụng cá nhân chiến đấu và chỉ xử dụng lựu đạn đánh địchđể bọn chúng không phát hiện chúng ta ở đâu, vừa đánh vừa lui dần do đó bọnchúng không dám bám gắt, nhưng cho dù đánh kiểu nào đi nữa thì chúng tôi cũngkhông còn đủ đạn dược để cầm cự, địch đông cấp tiểu-đoàn hoặc nhiều hơn có thểcả trung-đoàn 33 Quyết-thắng ở đây. Trung-úy Vương đại-đội trưởng bị thương,ngực thấm máu nhưng không nặng vì tôi thấy anh còn di-chuyển được, chúng tôiđau lòng khi thấy anh em mình bị thương nặng nằm chờ chết mà không cứu được !
Bọn việt cộng bắt đầupháo, trong rừng bị pháo rất nguy hiểm... đạn có thể chạm nhánh cây phát nổ vàmảnh đạn phủ chụp xuống... nhưng hình như bọn việt cộng không biết rõ đội hìnhvà hướng lui quân của ta nên đạn pháo nổ chệch hướng. Chiến trường khói lửa mịtmùng, đạn pháo phá nát một vùng rộng lớn mà phần nhiều nổ chận đường rút luichúng tôi về hướng căn cứ 6 Bình-Tuy, tôi chợt hiểu, bọn việt cộng đoán biếtđược hướng lui binh của ta, tôi ra lệnh đổi hướng, tất cả nhắm hướng căn cứ 2thuộc Long-Khánh rút thật nhanh. Chúng tôi nương theo những con suối cạn rộngkhoảng 2 thước và sâu tới ngực... cố chạy thật nhanh, đến 02:00 giờ trưa khôngcòn nghe tiếng súng của việt cộng, tôi biết chắc bọn chúng bị lừa nên vẫn tiếptục truy kích chúng tôi theo hướng căn cứ 6.

Hết sức thận trọngchúng tôi tiếp tục di chuyển về căn cứ 2. Đến 04:00 giờ chiều, cánh quân đi đầubáo "có người", tôi cho dàn quân thật nhanh chuẩn bị trận đánh cuốicùng vì đạn dược người có người không và tất cả hầu như kiệt sức.

Đại-đội 1/344 báokhông phải việt cộng mà là người dân đang bắt cá ở một con suối, anh này chobiết ở đây thuộc căn cứ 2... từ đây ra đó hơn một cây số. Dân số ở đây khoảng10 ngàn nhưng đã di tản chỉ còn lại vài trăm người (căn cứ 1 và căn cứ 3 đã lọtvào tay việt cộng cách đây vài ngày), nơi đây vẫn còn lính Quốc-gia. Thật khôngcó nỗi vui nào bằng, bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến hết, chúng tôi uà xuốngdòng suối trong xanh như một đàn vịt. Sau khi uống và lấy nước xong, tôi thậntrọng cho một toán lính cùng người dân bắt cá đi trước, hai cánh quân theo saukhoảng cách hai trăm thước. Không bao lâu chúng tôi đã nhìn thấy lác đác vàimái nhà... tôi cho lịnh toán quân đi đầu bắn một quả chiếu sáng dù và giươngcao lá cờ Quốc-gia để tránh ngộ nhận. Phía bên trái cách chúng tôi vài trăm métlà lá cờ vàng ba sọc đỏ đang tung bay trong gió chiều lồng lộng, lá cờ thật oainghiêm, lòng tôi rộn lên một niềm vui khôn tả ! Nén xúc động... tôi cho lệnhrải quân thật mỏng, canh gác cẩn thận.

Dân chúng chạy ra xemrất đông, họ mang cả bắp, khoai mì, khoai lang luộc, mì gói và cả cơm mới nấumà gia đình chưa kịp ăn đem cho lính... tình Quân Dân như thế đó ! Người línhcảm thấy nhỏ bé trước tình cảm đồng bào dành cho họ !!! Trong số đồng bào còncó vài anh lính của căn cứ 2, tôi theo họ vào gặp vị Thiếu-tá Tiểu-đoàn trưởngđể xin nhờ máy gọi về Tiểu-khu Bình-Tuy. Tôi nhận được lịnh ngày mai 23/03/1975trực-thăng sẽ bốc chúng tôi. Kiểm điểm quân số chúng tôi còn 200 người, như thếchúng tôi đã mất 40 người trong trận chạm súng ngày hôm qua và sáng nay vớiviệt cộng.

(Vài ngày sau tôi đượcbiết cánh B của tôi gồm có đại-đội 3/344 của Đại-úy Trương-Kiêm trực thăng tìmthấy trong rừng và bốc về Long-khánh tổng cộng 36 người. Đại-đội 4/344 củaĐại-úy Nguyễn-châu-Luyện về được căn cứ 5 tổng cộng 15 người. Tiểu-đoàn 369/ĐPphòng thủ bên trong Chi-khu về được 99 người, Thiếu-tá Xinh Chi-khu trưởng chỉmột mình. Ông về tới căn cứ 6 thuộc Bình-Tuy cách xa Hoài-Đức 70 cây số. RiêngTiểu-đoàn 2/43 của Sư-đoàn 18BB tăng phái cho Hoài-Đức về được Long-Khánh,thiệt hại không rõ. Như vậy Tiểu-đoàn 344/ĐP của tôi thiệt hại hơn phân nửa,khoảng 260 người).

08:00 giờ tối ngày23/03/1975, chúng tôi về đến Bình-Tuy, tôi vào trình diện Đại-tá Trần-bá-ThànhTiểu-khu trưởng (Ông hiện định cư tại nam California, trước khi về BT làm Tỉnhtrưởng kiêm Tiểu-khu trưởng, Đ/tá Thành là Trung đoàn trưởng Tr/đoàn 48/18BB).Tôi trình bày sơ lược tình trạng hiện nay của tiểu-đoàn, sau đó Ông bảo tôi vềnghỉ ngơi mai sẽ tính... nhưng khi ra tới cổng tiểu-khu tôi bị ngất xỉu phảichở vào bệnh viện vì kiệt sức. Đêm đó, bạn tôi Đại-úy Lê-Hùng tiểu-đoàn trưởngTĐ341/ĐP vào bệnh viện mang tôi về hậu-cứ của anh ấy cho y-tá chăm sóc mặctiếng phản đối của nhân viên bệnh viện và Bác-sĩ (anh Lê-Hùng hiện đang cư ngụtại nam California).

Địa-phương quân"đứa con không được chăm sóc của QLVNCH" người dân thành thị hầu nhưquên lãng họ, đã chiến-đấu trong cô-đơn, trong điều-kiện trang-bị và hỏa-lựcyểm-trợ quá thiếu thốn... nhưng họ vẫn phải chiến-đấu để bảo-vệ Tổ-quốc và đồngbào, chiến-công không ai biết và cái chết của họ cũng lặng lẽ theo tiếng kèntruy-điệu. Tiếc thương họ có chăng là những tiếng nấc nghẹn-ngào của vợ, con vànhững người thân thuộc, của những đồng đội đứng cúi đầu với dòng lệ tiếc thương!

"Họ là những anh-hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can-đảm và tận tình giúp nước !”
(thơ Giáo-sư Nguyễn-ngọc-Huy)

Viết tại San Jose,California cuối Thu 2011
Lê Phi Ô
Tiểu-đoàn trưởngTĐ344/ Địa phương
Tiểu-khu Bình-Tuy -(cựu tù A20).



TRẬN CHIẾN CÔ ĐƠN !


(Những ngày cuối cùng của chi-khu Hoài-Đức/Bình-Tuy)

Cuối năm 1974, việt cộng mở chiến dịch "Tánh Linh - Hoài Đức" hòng đánh chiếm hai quận Tánh-Linh và Hoài-Đức thuộc tỉnh Bình-Tuy, nếu thành công chúng sẽ kiểm soát được một vùng lãnh thổ rộng lớn của 3 tỉnh Long-Khánh, Lâm-Đồng, Bình-Tuy và Quốc-lộ 20 đường đi Đà-Lạt tại cây số 125 thuộc xã Phương-Lâm, quận Định-Quán, tỉnh Long-Khánh (theo tài liệu của Dr. Nguyễn Đức Phương - London, tác giả "Chiến tranh VN toàn tập”).

Mục đích thứ hai là chúng cầm chân được một số đơn-vị lớn của ta để dễ bề đánh chiếm tỉnh Phước-Long. Nhưng chiến dịch của việt cộng bị bẻ gãy, cho dù quân số cấp Sư đoàn (+) bọn chúng cũng không chiếm được chi-khu Hoài-Đức do sự chống trả quyết liệt của Tiểu đoàn 344/Địa Phương với 33 ngày tử-thủ và sau đó được Sư đoàn 18BB giải vây đẩy lùi bọn việt cộng vào tận rừng sâu.

Đến tháng 3 năm 1975 bọn việt cộng mở chiến dịch đợt II quyết dứt điểm chi-khu Hoài-Đức. Tiểu đoàn 344/ĐP đang dưỡng quân tại tỉnh lỵ Bình-Tuy đồng thời để bổ sung quân số và tái trang bị... thì được lệnh khẩn cấp lên đường cứu viện chi khu Hoài-Đức đang bị việt cộng bao vây.

ĐỊCH: lực lượng việt cộng quân khu 6:

- Trung đoàn 812 Sông Mao

- 2 tiểu đoàn đặc công

- 1 tiểu đoàn Pháo mặt đất - Cao xạ

Quân khu 7 việt cộng tăng cường thêm:

- Trung đoàn 274

- Các đơn vị địa phương việt cộng

(Quân số VC tương đương một Sư đoàn)

BẠN: Phòng thủ bên trong cứ điểm chi-khu:

- Tiểu đoàn 369/ĐP

Đơn vị tăng phái nằm ngoài chi khu về hướng tây và cách CK 1000m:

- Tiểu đoàn 3/43 thuộc Sư đoàn 18BB

DIỄN TIẾN: Ngày 14/03/1975, TĐ344/ĐP được con voi đưa đến xã Gia-Rây thuộc Long-Khánh, từ đây Trực thăng vận vào chi-khu Hoài-Đức. Sau khi đổ quân, tiểu đoàn nhanh chóng chiếm giữ các mục tiêu: ấp Chính Tâm 1, 2 và 3 nằm trên tỉnh lộ 333 (TL333) về hướng Nam chi-khu Hoài-Đức (CK/HĐ) từ 5 đến10 cây số.

Từ những mục tiêu này... ban đêm quan sát rất rõ từng đoàn xe chuyển quân và vũ khí của việt cộng từ hướng Quận Tánh-Linh về Võ-Xu thuộc Hoài-Đức... báo hiệu một trận đánh lớn sắp sửa xảy ra. Chúng tôi xin đánh bom nhiều lần nhưng Quân-đoàn trả lời "không có máy bay". Chi khu Hoài Đức chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly với đạn dược thiếu hụt chỉ tạm đủ để phòng thủ vả lại có bắn cũng không tới (khoảng cách xa trên 12 cây số đường chim bay).

Ngày 17/03/1975 lúc 09:00 giờ tối, tiểu đoàn nhận lệnh bỏ tất cả vị trí đang đóng quân và rút về hướng Chi khu... càng gần càng tốt. Suốt đêm cho gom quân, bỏ lại tất cả vật dụng cồng kềnh và trong đêm tối mịt mùng Tiểu-đoàn mở đội hình... thận trọng tiến về hướng Chi khu Hoài-Đức.

Ngày 18/03/1975 lúc 08:00 sáng Đại đội 1/344 và Đại đội 2/344 chạm địch nhưng không mạnh, hai Đại đội nhanh chóng thanh toán mục tiêu và tiếp tục di chuyển trong tinh thần cảnh giác cao độ. Trên trục tiến quân có một ngọn đồi cao 50m bề rộng độ 100m, 70% là đá nên có tên gọi là "Đồi Đá". Xung quanh có những ngọn đồi thấp, nhỏ hơn, Đồi Đá cách Chi khu 2 cây số về phía nam. Khi cánh A của Tiểu đoàn tiến đến chân đồi thì địch quân từ trên đồi khai hỏa với vũ khí đủ loại, tôi cho lệnh tấn công lên đồi cả 3 mặt, đến 11:00 giờ trưa chúng tôi làm chủ hoàn toàn ngọn đồi với thiệt hại tương đối nhẹ.

Đến lúc này mới biết rõ lý do chúng tôi được lịnh rút bỏ các ấp Chính Tâm 1, 2, và 3 vì việt cộng đã chiếm xã Gia-Rây nơi bãi bốc trực thăng cách đây mấy ngày,như thế Tỉnh lộ 333 đã bị cắt đứt, đồng thời Quốc lộ I từ ngã ba Ông Đồn đến ấp Suối Cát thuộc Long-Khánh cũng đã bị VC đóng chốt làm gián đoạn. Như vậy là quận Hoài-Đức hoàn toàn bị cô lập đường bộ... (về đường hàng không thì QĐ III không còn một chiếc máy bay nào để chi viện cho Hoài-Đức).

Ngày 19/03/1975, VC bắt đầu pháo và tấn công CK hoài Đức bằng bộ binh, tôi được linh giải tỏa áp lực địch từ hướng nam của chi khu. Tôi lịnh cho ĐĐ3/344 và 4/344 do Tiểu đoàn Phó chỉ huy tiến bên trái TL333 để thanh toán địch, mục tiêu từ cầu Nín-Thở đến vườn cao-su khoảng cách 2 cây số và sau đó bắt tay với bạn là TĐ3/43BB của Thiếu tá Dư và đặt thuộc quyền xử dụng của Th/tá Dư đánh địch, để giải tỏa áp lực từ hướng tây của chi khu. Cánh A do tôi chỉ huy với 3 Đại đội còn lại tiến bên phải TL333 để đánh sau lưng địch từ hướng chính nam. Cả hai hướng tiến đều gặp trở ngại vì thế đất trống trải, người Dân đã dọn sạch cỏ để trồng đậu phọng nên không có chổ ẩn núp, vừa tiến được 500m thì VC pháo như mưa, nhưng vì đợt đầu tiên chưa chính xác lắm nên cũng đủ thời gian cho chúng tôi đào hố tránh đạn, và cứ thế... mỗi 10m tiến là phải đào một hố cá nhân, chúng tôi chỉ có thể đào hố nằm chứ không thể đứng lên để đào hố ngồi dưới hỏa lực của địch. Cánh B cũng không khá gì hơn, phải đội pháo mà đi... nhưng dù sao cũng đở hơn cánh A vì trước mặt độ 2000m là có bạn (TĐ3/43BB). Tôi gọi CK để xin máy bay đánh Bom, CK trả lời "không có !"...tôi xin Pháo binh yểm trợ nhưng chỉ được 10 quả thì CK bảo hết đạn... hơn nữa CK cũng đang chống trả từng đợt xung phong biển người của việt cộng, Pháo binh đang hạ nòng bắn trực xạ vào lũ điên đang cố tràn ngập Chi khu. Tôi nghĩ đến giải pháp đánh đêm để giảm thiểu thiệt hại cho ta nhưng CK sắp bị tràn ngập chúng tôi không còn thời gian để chờ đánh đêm. Trước mặt cánh A là cả một Trung đoàn địch với đầy đủ hỏa lực yểm trợ...Tiến được vài chục thước thì bị địch đẩy lùi... và nhiều lần như thế, có lúc chịu không nỗi với quân số áp đảo của địch cánh A suýt bị chúng tràn ngập, chúng tôi cố gắng giữ vững tuyến và hy vọng Chi khu sẽ cầm cự được đêm nay. Cánh B đã bắt tay được với TĐ3/43BB lúc 8:00 tối, đến 12:00 giờ đêm tôi mất hẳn liên lạc với Chi khu nhưng tiếng súng nơi đây vẫn còn nổ dữ dội chứng tỏ CK chưa lọt vào tay địch, cùng lúc đó phía cánh B bắt đầu chạm nặng... tôi liên lạc, Tiểu đoàn phó bảo không sao và còn khả năng chơi với bọn vẹm ! tôi biết, anh em muốn trấn an tôi... nhưng dù có muốn tiếp viện cho cánh B tôi cũng không thể nào tiếp được vì bị địch bám gắt, một chọi với năm, sáu... đạn dược không được tiếp tế, không có Phi cơ hoặc Pháo binh yểm trợ... còn việt cộng với quân số áp đảo, chúng dùng cả súng phòng không bắn vào đội hình của ta.

Nửa đêm kho xăng Chi khu (ngoài vòng rào) bị cháy và phát nổ... những thùng phuy đầy xăng bay bổng lên không nổ bùng như trái cầu lửa phủ chụp xuống, có những thùng rơi vào trong hàng rào bốc cháy dữ dội, tình thế CK thật nguy ngập. Gần sáng tiếng súng giao tranh tại CK yếu dần rồi im hẳn, phía cánh B của tôi cũng thế, tôi gọi không thấy trả lời... tôi tiếp tục gọi nhưng tất cả đều "im lặng vô tuyến", sự im lặng khó hiểu ! Đột nhiên việt cộng cũng ngưng tấn công cánh A của tôi.... tất cả một vùng lửa đạn bỗng nhiên im ắng lạ lùng, văng vẳng từ xa hướng ấp Sùng Nhơn nhiều tiếng gà gáy sáng.

Tôi cố gắng gọi cánh B, gọi Chi khu, rồi gọi Trung đội Pháo binh nhưng vô ích... không một tiếng trả lời, một ý nghĩ thoáng qua làm người tôi lạnh toát..."không lẽ họ chết hết rồi sao !?!". Lúc hừng sáng, Đại đội 1/344 bắt gặp vài người lính của Chi khu chạy thoát ra ngoài, họ cho biết là Chi khu bị địch tràn ngập lúc 4:30 sáng, Thiếu tá Xinh Chi khu trưởng đã thoát được ra ngoài cùng vài người thuộc Bộ chỉ huy Chiến-Thuật (tiền thân của BCH/Liên đoàn Địa phương), Th/tá Khanh Tiểu đoàn trưởng TĐ369/ĐP đơn vị phòng thủ bên trong Chi khu không rõ. Quyết định thật nhanh... tôi cho cánh A lùi lại đồi đá để sẳn sàng trận đánh cuối cùng !!!

Lúc này tôi mới thật sự cảm thấy mình cô đơn ! Bộ chị huy Chi khu, Tiểu đoàn 3/43/BB, Tiểu đoàn 369/ĐP phòng thủ bên trong Chi khu, hai Đại đội thuộc cánh B của tôi... giờ này họ ở đâu, sống chết như thế nào ?! Tôi như chực khóc nhưng cố gắng kềm lại vì là cấp chỉ huy tôi không được quyền tỏ ra mềm yếu... nhưng sao lòng cứ rưng rưng ! Địch quân đông cấp Sư đoàn với đầy đủ hỏa lực yểm trợ, phía ta chỉ có 3 Tiểu đoàn với vũ khí cơ hữu... không có máy bay, không có Pháo binh, không có tiếp tế, không có tản thương, không có tiếp viện...(Chi khu Định-Quán thuộc Long-Khánh cách Hoài-Đức 30 cây số cũng đã bị VC chiếm) xung quanh đây toàn là rừng tiếp rừng bán kính gần 100 cây số không có bạn. Trước mặt cánh A của chúng tôi mà quân số giờ đây còn lại chưa tới 250 người... khoảng cách hơn 100m là con suối, bên kia suối cả một Trung đoàn VC, sau lưng tôi bị tối thiểu một Tiểu đoàn VC khóa đít... bọn chúng đang đào hầm, nếu tiếp tục chiến đấu chúng tôi chỉ có thể cầm cự được vài giờ thì hết đạn. Một anh Lính đưa cho tôi mảnh giấy do người Dân trong đoàn người di tản vừa ngang qua đưa lại, bọn việt cộng kêu gọi chúng tôi đầu hàng, văn phong và nét chữ của kẻ ít học... tôi lật phía sau viết trả lời: "Đầu hàng địch ư ? Trong trường bộ binh chưa dạy tao tiết mục này !" và nhờ người dân đưa lại cho bọn việt cộng.

Lúc này tôi mới thấy trách nhiệm quá nặng đè lên đôi vai, làm sao tôi có thể dẫn dắt hơn hai trăm sinh mạng của đồng đội vượt thoát được vòng vây của địch về chốn an toàn. Tôi nhìn một vòng xung quanh... những người lính già với gương mặt hốc hác, lầm lì khó mà đoán được họ đang nghĩ gì !... những anh lính trẻ hiện rõ nét lo lắng trên mặt, họ còn quá trẻ.... quá trẻ để chết !!! Như một phản xạ tự nhiên...tôi kiểm soát lại súng đạn của mình, khẩu M16 còn được 2 băng đạn tạm đủ chơi, tôi lấy khẩu Colt 45 bấm băng đạn... còn đủ 7 viên, tôi sẻ dùng 6 viên chơi với tụi nó, còn một viên cuối cùng tôi dành lại cho tôi.

Lê Phi Ô

Tiểu đoàn trưởng TĐ344/ĐP/ Tiểu-khu Bình-Tuy

(Trận đánh chưa kết thúc ở đây, sẽ được tiếp tục trong thiên Hồi-ký LUI BINH trên đoạn đường MÁU dài 40 cây số từ Võ-Đắt đến căn cứ 2 nằm trên Quốc lộ I bắt đầu ngày 20/03/1975). LPO


TRẬN CHIẾN CÔ ĐƠN (thơ)

(Tặng anh Lê phi Ô và các chiến-sĩ dũng cảm của TĐ344/ĐP Bình-Tuy)

NXV - Úc Châu.


Trận chiến cô đơn anh hùng vẫn sống

Giang sơn này từng giọt máu đào rơi

Vẫn uy dũng giữa đất trời lồng lộng

Trung hiếu* này da ngựa bọc xác phơi.


Người biết chết vẫn ôm lòng chiến đấu

Giữ non sông xanh mạ giữa đông tàn

Giữa thê lương trái tim còn nung nấu

Diệt giặc thù dù thân thể nát tan.


Người đã sống cho đất trời được sống

Cùng dân lành bám đất giữ quê hương

Cho đồng nương rợp lúa vàng xanh mộng

Cho mắt người em gái bớt lệ vương.


Anh chỉ còn phút giây này tử thủ

7 viên còn sót lại rửa hờn anh

6 viên kia dành trả thù cho nước

Viên cuối cùng anh viết nốt sử xanh.


NXVạn (Australia)

*Trung hiếu cũng là danh hiệu truyền tin của anh Lê phi Ô

4/12/11

PHỎNG VẤN 20 NGUYỄN VĂN MƯỜI


A20 NGUYỄN VĂN MƯỜI ĐÃ ĐÀO THOÁT
KHỎI NHÀ TÙ LỚN VIỆT NAM



Nguyễn Văn Mười (Mười rụng)


Kính thưa quý vị, chúng tôi được tin A20 Nguyễn Văn Mười, một cựu Thủy Quân Lục Chiến, một cựu lính trấn đảo Sinh Tồn thuộc quần đảo Trường Sa cho đến ngày miền nam gãy súng, đã trải qua hơn 21 năm trong lao tù cộng sản, vừa đào thoát khỏi nhà tù lớn Việt nam, đến tìm tự do tại Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Từ San Jose, phóng viên Kim Anh của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước đã liên lạc được với A20 Nguyễn Văn Mười và thực hiện cuộc phỏng vấn sau đây:

Phóng Viên PTPNVNHĐN: Chào anh Mười, Thưa anh tôi là Phóng viên Kim Anh, của Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước từ San Jose, xin chúc mừng anh đã đào thoát khỏi nhà tù lớn Việt nam. Thưa anh xin anh giới thiệu với độc giả của PTPNVNHĐCN sơ lược về nhân thân, về những hoạt động của anh rồi những năm tháng lao tù và hành trình đi tìm tự do của anh được không, thưa anh?

A20 Nguyễn Văn Mười: Dạ thưa chị, tôi là Nguyễn Văn Mười, những người bạn tù thường gọi tôi là Mười Rụng, bởi khi bị bắt, trong thời gian điều tra, cùng với nhiều nhục hình khác, công an điều tra của CS đã đánh tôi một báng súng AK vào miệng, lấy đi của tôi 3 chiếc răng cửa.

Tình Buồn

Từ giã thư sinh đi làm lính trận
Lang bạt giang hồ gối đất nằm sương
Nhớ mái trường xưa với hàng hoa Phượng
Sắc đỏ rụng rơi phủ kín sân trường

Từ đạo quê hương ngập tràn khói lửa
Súng đạn quân thù xé nát làng quê
Thầy cũ, bạn xưa lên đường lánh nạn
Chinh chiến bao năm tôi vẫn chưa về

Rồi một hôm quân hành qua phố thị
Một màu tang phủ lấp mái trường xưa
Phượng xác xơ, tường vôi loang vết đạn
Bóng dáng bạn, thầy khuất nẻo mờ xa

Tôi quay bước hồn xót xa nhỏ lệ
Giữa quê nhà như lạc chốn xa xôi
Thôi từ đây lìa xa nơi chốn cũ
Ngửa mặt nhìn trời thầm gọi... Phượng ơi !

A20 Lê-Phi-Ô
25/04/2011




Lui binh



A20 Lê Phi Ô
I. Mở đầu:
Trận đánh tại Chi Khu Hoài Ðức (Võ Ðắt) và Chi Khu Tánh Linh tháng 12, 1974, Quân Khu 7 Việt Cộng đã sử dụng lực lượng khoảng 2 sư đoàn gồm có: Trung Ðoàn 33 Quyết Thắng, Trung Ðoàn 812 Sông Mao, Trung Ðoàn 4 thuộc Sư Ðoàn 6 VC tân lập.
Ngoài ra, chúng còn có Trung Ðoàn E.211, 2 trung đoàn địa phương thuộc Lâm Ðồng và Bình Tuy, 2 trung đoàn Pháo & Phòng Không và một Tiểu Ðoàn D200 Ðặc Công.
- Tại Hoài Ðức (Võ Ðắt): Việt Cộng tấn công Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân với gần một sư đoàn Bộ Binh và một trung đoàn Pháo tại khu vực Gia Huynh, ấp Chính Tâm 2 và ấp Chính Tâm 1 nằm phía Nam Chi Khu Hoài Ðức từ 10 đến 12 cây số đường chim bay… Mục đích của Việt Cộng là muốn tiêu diệt LÐ7/ BÐQ tại đây để không cứu viện được CK Hoài Ðức. Vị trí pháo binh 105 ly của Pháo Ðội Trưởng Nguyễn Hữu Nhân phải dời vị trí nhiều lần vì VC pháo khá chính xác. Những chiến sĩ dũng cảm Biệt Ðộng Quân đã đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch, bẻ gãy ý định ngông cuồng của chúng, gây tổn thất nặng nề và làm giảm khả năng chiến đấu của Cộng quân (theo tin tức ghi nhận sau trận chiến).

Địa danh của tôi


Ý Cơ ( A20 Vũ Trọng Khải
phu nhân )

Khi còn ở lứa tuổi học trò, trong giờ học môn địa lý, ngồi nắn nót vẽ bản đồ quê hương, hay được thầy chỉ cho xem, vị trí các quốc gia trên qủa địa cầu nho nhỏ, vào lúc đó, mình ao ước, sẽ có ngày được du lịch đến một quốc gia nào khác.

Nhưng bây giờ, vào lứa tuổi không còn trẻ, nghĩ lại, không nơi nào đẹp hơn quê hương mình.

Cuộc đời mỗi người, từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, ai trong chúng ta có hai tờ giấy quan trọng. Để chứng minh cho sự hiện hữu của ta trong cuộc đời này, là giấy khai sinh, trên đó ghi rõ địa danh nơi ta chào đời, và tờ giấy thứ hai, giấy khai tử, trên đó cũng ghi rõ địa danh lúc lìa trần.

Tiễn biệt đồng môn Lại Tình Xuyên



Cánh Bằng Đã Gặp Bóng Mây

Đỗ Tiến Đức

Đám già chúng tôi lại vừa mất thêm một người bạn thân quí. Tin báo về Lại Tình Xuyên đã qua đời khiến bạn bè ai cũng bàng hoàng gọi điện thoại hỏi thăm nhau mà không ai biết gì hơn vì điện thoại của nhà Lại Tình Xuyên không ai nghe. Nhưng không ai dám nghĩ cái bản tin ngắn ngủi từ một đồng môn ở Seattle gởi đi là tin thất thiệt. Thế rồi điện thoại reo, tôi bắt lên, chưa kịp “alô” thì đã nghe tiếng òa khóc của chị Xuyên như tiếng vỡ của chiếc độc bình cổ từ tầng cao rớt xuống: “Anh Đức ơi, anh Xuyên mất rồi. Anh Xuyên bỏ chúng ta mà đi rồi”...

TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC


Hồi Ký 26 năm lưu đày


Thích Thiện Minh

CHƯƠNG 6

TRẠI GIAM XUÂN PHƯỚC:

NƠI RỪNG THIÊNG NƯỚC ĐỘC…

“THUNG LŨNG CỦA TỬ THẦN !”

1. NGƯỜI NỮ ANH HÙNG: THÁI THỊ KIM VÂN

Sau vụ đào tường trốn trại bất thành. Tôi bị cùm quyện suốt ngày đêm, bị cúp thăm nuôi, không được nhận quà gia đình đã hơn một năm, đôi chân teo nhỏ lại và gần như bại liệt, đôi mắt trở nên mờ, thân thể ốm dần. Bất ngờ một hôm có một sĩ quan an ninh đến tại cửa phòng và thông báo tôi phải chuẩn bị đồ đạc cá nhân di chuyển gấp, chưa đầy năm phút sau, họ đến mở cửa, anh em các phòng bên cạnh đến kè tôi ra xe … một chuyến đi xa chưa biết sẽ về đâu?.

Chúng tôi tất cả gồm 21 người, 20 người nam và 1 nữ như sau :

Xuân Trong Mắt Nàng


Bài của A20 Phạm Ngọc Cửu


Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn

Cho đến chừng này tuổi đầu - cái tuổi mà nhiều người nói rằng: gần đất xa trời, tuy cuộc đời đã trải qua trăm cay nghìn đắng, córất nhiều điều muốn nhớ mà không có cách gì để moi ra thì vẫn có những dấu ấn tuổi thơ không bao giờ phai mờ, nó vẫn ngọt ngào, vẫn thanh tao thanh khiết. Nó hiện đến vào cái lúc cô đơn, bốn bề là bóng tối vây bọc, là rét lạnh tê cứng xương da, là cơn nóng ập xuống ngột ngạt, là cái nhức nhối của cái móng cùm cứa vào ống chân, là mùi tanh tửi của phân, nước tiểu... nhờ có nó mà mùa Đông đi qua, muà Hè xuất hiện, tôi đã vượt qua được, sống được để khi cánh cửa sắt nặng nề rít lên với sức lực của tay tù hình sự trẻ tuổi ỳ ạch mở ra, tôi phải nhắm mắt vì ánh nắng đã làm nhức nhối không sao chịu được. Người tù hình sự đã dìu tôi đứng lên để nghe đọc lệnh tha ra khỏi xà lim, sau đó mở cùm và tiếp tục dìu tôi vượt qua khoảng sân rộng của trại giam để về đến chỗ của đội... Anh em đồng cảnh với nhiều cánh tay đón tôi vào chỗ nằm, tôi lả đi, mê mệt, bên tai là âm thanh của tiếng nói quen thuộc mà đã gần cả năm tôi không có dịp nghe...

Gửi người cô phụ


(cảm tác theo TÌNH NGƯỜI CÔ PHỤ thơ của văn hữu Uyên Thúy Lâm)



Em yêu dấu ! nước non mình khói lửa
Nợ núi sông anh khoác áo chinh nhân
Từ giã nhau, sân ga buồn lặng lẽ
Chân bước đi lòng cứ mãi ngập ngừng

Thôi em nhé từ đây mình xa cách
Đời chiến chinh đâu biết được ngày về
Hẹn ngày mai khi tàn cơn binh biến
Anh sẽ về với sông nước, tình quê

Từ thuở ấy anh đi vào sương gió
Chiến y xưa thấm máu bạn, máu thù
Có những lúc dừng quân nơi lũng thấp
Tiễn bạn mình vào giấc ngủ thiên thu

Rồi từng buổi lăn mình trong lửa đạn
Vẫn còn mơ - em… áo trắng sân trường
Anh cầu nguyện lần nào mình gặp lại
Một đóa hoa rừng trên tóc em thương

Mà em ơi ! quê mình còn khói lửa
Giặc thù còn bom đạn ngập làng quê
Đất nước tang thương, tình mình - đành hứa
Hãy để anh đi mai mốt anh về

Ôi ! tháng tư nào trong cơn biến động ?
Em lạc quê người - anh tận rừng sâu
Mình mất nhau tình yêu còn đâu nữa
Anh cúi đầu... gánh hết những thương đau !


A20 Lê Phi Ô
5/2011






Hoài Niệm


A20 Lê Phi Ô

(Trích đoạn một trong những câu chuyện thật xảy ra trong thời chinh chiến.)

……….

9 tháng quân trường,

12 năm chiến đấu,

7 năm trong trại tù “cải tạo” tập trung.


Sống và lớn lên trong lửa đạn, gian lao và tù đày... thời gian đã tạo cho tôi một hình hài già nua... cằn cỗi.


Bây giờ thì bạn bè mỗi đứa một phương, người tình rồi cũng bỏ tôi mà đi... Xen lẫn trong quá khứ kiêu hãnh là một hiện tại... trống vắng, cô đơn và nhiều... nuối tiếc !


Có nhân...! Cố nhân... xa rồi ! Biết đến bao giờ ta gặp lại cố nhân để được sống lại những lúc huy hoàng trong sắc mùa chinh chiến cũ...!!!


“Người ta đi lính mang lon,

Chồng em đi lính mang xoong mang nồi!”


CUỒNG SĨ BÊN SÔNG


Đọc Thủy Hử
Khoái những anh hùng Lương Sơn Bạc
Cung kiếm nát nhầu
Người kẻ chợ lêu bêu
Gã lớn lên
Giữa phố đời bát nháo
Giữa hận thù đốt cháy tuổi trai tân
Một đời gã
Ai chân tình ai tri kỷ
Lắm mồm đen bạc
Chữ nghĩa đa đoan
Đốt rẫy khai hoang
Lau sậy khói mù ngút bãi
Gã chim trời lượn bậy
Kiếm tai ương lên trang chữ nhập nhòe
Một ngày lửa cháy tiêu tháp bút
Gã thấy tim người nhúm cỏ hoang
Trong chính trị thiếu gì tay lừa đảo
Yêu quê hương lòe lọet trăng hoa
Có nhiều đêm gã say mèm cuộc rượu
Nhìn mặt nhau rách nát mà buồn
Thanh kiếm cùn gãy mẹ cán chuôi
Nếu mai kia làm tên lái kiếm
Xoay nhẹ đường gươm tặng bọn bất nhân

CÁI TRỌNG TY




(nguồn: http://caitrongty.wordpress.com/)