21/1/11

Về nhà báo Nguyễn Tú vừa qua đời



A20 Vũ Ánh 
VietHerald (07/14/2010)

Dường như mỗi khi nghe tin một nhà báo ở vào thế hệ tôi ra đi, tôi vẫn cảm thấy mất đi một điều gì đó trong đời. Và khi đã ở vào tuổi 70 như tôi, mất mát ấy càng lớn lao hơn. Phải chăng những nhà báo ấy, có khi suốt trong cuộc chiến cũ chưa bao giờ tôi nói chuyện hay uống với nhau một ly cà phê, đều là những mắt xích từng một thời tiếp tay nhau tạo nên một đời sống báo chí đầy mầu sắc tại miền Nam Việt Nam, dù rằng nhà cầm quyền, trong rất nhiều trường hợp, không thích chúng tôi như thế. Nhưng chính đời sống ấy đã tạo cho lớp người viết báo trẻ chúng tôi, vào giai đoạn đó, cũng như sau này, niềm say mê báo chí, rất khó bỏ, rất khó về hưu cho dù đã luống tuổi như bây giờ.

Vì thế, khi nghe tin nhà báo Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận trước 30 tháng 4, 1975 qua đời ngày 11 tháng 7, 2010 ở tuổi 86, tôi không ngạc nhiên lắm. Chỉ đến khi về tới nhà báo tin cho nhà tôi, người đã đọc và ngưỡng mộ thiên phóng sự “Ngày Chủ Nhật buồn” của ông tường thuật cuộc triệt thoái gây tổn thất nặng nề cho quân và dân Cao Nguyên Trung Phần mà nay vẫn còn gây tranh luận, tôi mới nhận ra khoảng trống trong lòng mình mênh mông quá. Nhà tôi nói: “Tội nghiệp bác Tú.” Yến Tuyết là lớp phóng viên ra trường vào những năm cuối của cuộc chiến, chưa một lần gặp nhà báo Nguyễn Tú nhưng lại là độc giả những ký sự của ông về cuộc chiến.

Chân dung những chúa ngục

A20 nguyễn thanh-khiết



Vũ Mạnh Dũng chết rồi. Nó chết khi ra khỏi trại Trừng Giới A 20 và còn rất trẻ. Nó bị đè gãy đôi cột sống, khi đang làm đội trưởng một đội xây dựng. Trong một buổi lao động phá sập một căn nhà, nó đã vấp ngã vì cố gắng chạy vào khu nguy hiểm để thét gọi anh em thoát thân khi căn nhà đang ập xuống. Nó bị nằm liệt vào lúc các đàn anh và bè bạn nó tan hàng tại trại A 20, từng đợt, từng đợt cho tới khi trại như trống trơn, danh sách những người tù chính trị với cái án tập trung vô thời hạn chỉ nằm đâu đó trên bàn mặc cả xóa trại tập trung mà người ta đang thực hiện ráo riết

1987, cái mốc của cảnh tan hàng. Nhưng những hình ảnh bi tráng vẫn còn và không bao giờ phai trong lòng những con người vẫn từng ngày vươn dậy dù trong nghiệt ngã, dưới cái đau buốt của cùm chữ U . Dưới cái dã man vô tiền khoáng hậu của những tên cai tù được liệt vào hàng hung tợn nhất trong lịch sử loài người. Cho đến bây giờ chân dung những con người một lòng chung thủy dưới màu cờ mà họ từng chiến đấu vẫn còn đó.

Dòng Sông Chia Cắt



Kỷ niệm 55 năm ngày Quốc Hận (20-7-1954 – 20-7-2010)

A20 Đỗ Văn Phúc

Trong đời người, ít ra ai cũng có một dòng sông kỷ niệm. Thời ấu thơ thì đó là dòng sông nơi ta thường bơi lội nhỡn nhơ vui đùa vô tư cùng các bạn. Tuổi đôi mươi thì đó là dòng sông nơi hò hẹn lần đầu với người yêu trong những chiều tà hay đêm trăng. Sông ngòi Việt Nam nhiều đến nỗi có đủ để ban phát cho mỗi người ít nhiều kỷ niệm êm đềm, nên thơ hay đắng cay hờn tủi, có khi cả kỷ niệm chia ly, đau buồn. Ðối với cả dân tộc thì hai con sông Gianh và Bến Hải là chứa chan bao kỷ niệm chia lìa, nhục nhã của sự phân tranh Nam Bắc. Hai trăm năm trước đây, hai họ Trịnh, Nguyễn cắt đôi núi sông vì tranh giành quyền bính trước một cơ đồ nhà Lê đã đến thời suy mạt. Hai trăm năm sau, thực dân và cộng sản lại nỡ đang tâm phân rẽ đại gia đình Việt Nam vì những giấc mộng ngông cuồng của chủ nghĩa đại đồng Cộng Sản. Chinh chiến điêu linh kéo dài hai mươi năm đã hủy diệt mầm sống của dân tộc: hàng triệu thanh niên ưu tú của hai miền gục ngã trên con đường Trường Sơn, trong rừng già Tây nguyên, sình lầy Ðồng Tháp... Tài nguyên thiên nhiên bị hủy diệt, thành phố, nông thôn tiêu điều; gia đình ly tán, niềm tin mai một. Cũng chỉ vì một dòng sông, cũng chỉ vì một chủ nghĩa ngoại lai phi nhân bản, cũng chỉ vì một loại người vô lương...

Nhân một niên trưởng vừa từ trần



  A20 Vũ Ánh
Việt Herald (07/07/2010)

Hàng ngũ cựu quân nhân VNCH lại vừa mất đi một niên trưởng: cựu đại tá Võ Hữu Hạnh, cựu SVSQ Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị, cựu Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 1 Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, cựu Tỉnh Trưởng Hậu Nghĩa, cựu Tư Lệnh Biệt Khu 44, cựu Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 23 Bộ Binh và nguyên Hội Trưởng Những Người Con Cha Diệp.

Trước biến cố 30 tháng 4, 1975, tôi gặp niên trưởng Võ Hữu Hạnh nhiều lần, và hầu hết là ở các mặt trận, nhất là thời gian ông chỉ huy ở Biệt Khu 44. Là dân tác chiến, trừ một thời gian không dài lắm ngồi ở ghế “tổng đốc” (từ ngữ mà giới báo chí chúng tôi hay dùng để gọi đùa các vị được cử làm đầu tỉnh), nhưng niên trưởng Võ Hữu Hạnh lại là người ưa văn chương, thơ phú, đọc sách và tìm hiểu triết học.

chiều Sa Huỳnh năm ấy




Nắng quái chiều giông
vàng bãi sậy
lá qua sông tàn uá
trôi lênh đênh
tôi theo gío chướng đời xuôi ngược
đất cũ bạc màu
Em bỏ quê đi
tôi nghe sóng vỗ
buồn như sóng
lặng lẽ một dòng tận biển khơi
đêm trên biển
đêm đen mù biển chết
chìm nổi một đời
thời hổn mang
tiếng ai hát vang vang
vọng về Lương Quán
thuyền qua Đại Lược ngược Kim Long
ký ức rối mòng
cờ tàn sóng giạt
mơ thuyền bến cũ
ngóng đời xa
chiều qua đây nghe tháng ngày tơi tả
ngồi bên sông
nghe nước chảy về đâu
trong tận cùng
nghe rã rời hạnh phúc
tôi còn gì
cánh chim biển mù tăm
bên rừng dừa chiều Sa Huỳnh năm ấy
bóng Em dài ướt đẫm bóng dừa nghiêng

Cái Trọng Ty


về lại Mang Yang


Hãy nghe âm thanh của một cánh A 20 trong những xót xa vô cùng tận của một đời người, và quá khứ như những tiếng ru  trong nỗi nhớ từng ngày. Cánh chim A 20 một thời oanh liệt.
Cái Trọng Ty.........., đó chính là Cái Trọng Ty


về lại Mang Yang


đây Mang Yang chuyến xe chiều lạc lõng
mình tôi qua ngơ ngác giữa lưng đèo
Ai réo gọi
mơ hồ rừng im lắng
trông núi ngả màu nắng quái dài lê
về An Khê
gío gào trong rừng lá
nghe âm âm rờn rợn tháng năm xa
chén rượu này đêm xưa mày uống cạn
khúc hồ trường ngâm một đêm mưa
cây cổ thụ xác mày không bia tạc
đất oan trầm đất lắm tai ương
đời trơ ám
trời cong chiều tối xám
trời chao nghiêng
dài qúa bóng tôi nghiêng
tim chợt nhói gió gào cơn lốc xoáy
trời âm u đồng vọng cuối rừng thu
nghe vó ngựa Phương Nam về Tây Bắc
trống ngủ liên dồn nhịp tiếng quân xa
tôi bước chậm vòng quanh đồi cỏ dại
những cây gìa dấu đạn nắng mưa phai
giày lính rách bươm
giòng đời cơ cực
tôi ngồi đây khóc bạn bóng lưng đồi
bóng xa khuất những đêm dài phố núi
dấu giày xưa in biếc những mùa hoa
màu kỷ niệm
những sắc buồn đá tảng
mưa cầu vồng tựa núi đứng bơ vơ

Cái Trọng Ty



Ngày Anh Về



(*Thư Khanh là phu nhân của thi sĩ Phan Lạc Giang Đông)

Thư Khanh
(Bút ký năm 1982)
 Chuyện tôi ghi lại đây là chuyện thực 100% của tôi, xảy ra năm 1982
 
 Vâng,
 Vào năm 1982 thì ông xã tôi được tha khỏi trại cải tạo! Từ XUÂN PHƯỚC anh trở về gày còm như một cái xác ve! Anh mặc bộ quần áo lúc đi trình diện cải tạo - Lúc đi thì mặc vừa mà nay mặc về thì bộ quần áo rộng thùng thình... Trông anh không còn hồn người... - một cái xác ve đang bước vào cổng... Ôm lấy vợ con!

Chuyện Buồn Người Vợ Tù

        

Một ngôi biệt thự nhỏ khiêm tốn cuối đường Hoàng Diệu, Đà Lạt. Phía sau là vườn hồng và có thể nhìn thấy trường Couvent thấp thoáng aó xanh lam của các nữ sinh nội trú. Đó là “ngôi nhà hạnh phúc” của chúng tôi cũng là tên do các bạn yêu thương đặt cho nó. Chúng tôi sống êm đềm hạnh phúc với ba đứa con thật dễ thương và một em bé còn đang trong bụng mẹ. Căn nhà lúc nào cũng rộn rã vui tươi nhất là Tết đến còn thêm “những con bà phước” (tức là những sỹ quan Võ bị không được về Sài Gòn ăn Tết vì cấm trại) tất cả đều quay quần vui chơi như chính nhà của họ, bởi vì các anh thích cái không khí thoải mái và thân thương nhất mà chúng tôi đã thật thân tình đón tiếp. 

dạ khúc vàng


thức qua đêm
viết vội cho người
chữ Rằng u uẩn
chữ Thì đa mang
chữ Là khuất lấp hai hàng
người về cố thổ
tìm Nàng chiêm bao

Cái Trọng Ty
Houston 2010

từ thuở ấy


rét cuộn mưa dầm lạnh tuỷ xương
từ thuở ấy
mùa thu lá rụng đầy
cổ xe đẫm máu
đẩy vào bến mê
sắc mây lịch sử ê chề
chảy giòng độc dược
đỏ nguồn sông xưa
trăm năm cuộc thế như vừa
cơ trời đáo hạn
đất chờ gian nan

Cái Trọng Ty
Houston 2010


bãi phù sa


mình Em qua biển phù sa
một mùa nước thuận một dòng mù khơi
Em đi động gối mây trời
lênh đênh sóng cuộn một thời xót xa
tôi tìm tôi khói Hoàng Hà
chuyện mình bi thiết chuyện người tang thương
tôi tìm Em lạc dấu đường
vườn im cổng khép hương vừa hôn mê
bên sông hoa dại não nề
chén tàn nhắp bọt men tình còn say
núi xa chim Phượng lưu đày
ai người kẻ chợ hơi thơ bạc lòng
đứng đầu sông lạc cuối dòng
nắng qua biển lụy thẩn thờ mây trông

Cái Trọng Ty
Houston June 2010



Huỳnh Cự




Anh Huỳnh Cự : Anh Huỳnh Cự hồi chánh tại Quảng Ngãi với cấp bậc Trung tá. Anh Huỳnh Cự cũng được Bộ chiêu hồi cử nhiệm chức vụ tham nghị đặc biệt kiêm nhiệm trưởng đoàn thuyết trình trung ương. Anh Huỳnh Cự tính tình bộc trực, cởi mở thường hướng dẫn các đoàn hồi chánh trình bày bộ mặt thật, gian xảo, tàn bạo, vô luân của chủ nghĩa cộng sản và đảng cộng sản từ các cơ quan tại Sàigòn đến các tỉnh, thị .. . Anh được thả năm 1990 và được cấp giấy xuất cảnh theo diện H.O.

          Một buổi sáng đầu năm 1991, anh Huỳnh Cự và anh Mai đình Tạo cựu trưởng ty chiêu hồi Bình Dương gặp nhau tại một quán cà phê đường Hàng Xanh. Trong câu chuyện anh Tạo dặn dò anh Cự không nên nói nhiều, đợi đến Mỹ sẽ tính. Hai anh rời quán và vừa đặt chân xuống lòng đường, một chiếc xe jeep màu xanh lao vào và cán qua người anh Huỳnh Cự. Hai người trên xe ngoáy cổ nhìn lại, lùi xe cho lăn bánh qua thi thể đang co giật thêm một lần nữa trước khi rồ máy đi thẳng. Buổi sáng hôm đó, anh Tạo và dân chúng xung quanh chứng kiến cảnh cộng sản thủ tiêu anh Huỳnh Cự một cách ngang nhiên giữa thanh thiên bạch nhật.

Đỗ Hữu Long

(Trích “Những Người Trở Về Với Đại Gia Đình Dân Tộc”)


********* 

Một chuyện đáng nói về một người mà đa số anh em đã quá dè chừng và nghi ngờ. Cựu trung tá Việt cộng Huỳnh Cự, sau khi ra hồi chánh với chế độ cộng hoà, đã được cử làm phụ tá bộ Chiêu hồi. Anh ở tù cùng trại, cùng nhà với tôi. Oái oăm thay, tên Thân như Yên, trưởng trại, trước đây là thuộc cấp của Cự. Một hôm nhân đứng gần, tôi nghe tên Yên nói với anh Cự: “Từ ngày anh ra theo giặc, bọn chúng tôi khốn đốn vì anh...” Câu nói này như một bản án nặng nề đè lên cuộc sống tù vô vọng của Cự. Chúng nó cho anh làm đội trưởng, nhà trưởng vì đoán rằng anh sẽ ra sức lập công -tội anh là tội chết mà. Anh chỉ tích cực trong lao động, và những mặt nổi, như sinh hoạt, học tập. Còn báo cáo thầm kín thì không có ai biết được. Lúc mới quen anh, tôi ưa nói chuyện và ít khi cảnh giác. Có lần tôi nói về Hồ chí Minh nhiều điều. Anh khẻ nói vào tai tôi: “cẩn thận cái miệng, cái mồm; nói gì khác thì cũng còn đường sống, chứ đụng vào lãnh tụ, chúng nó đập chết.” Tôi điếng người, mấy tuần lễ như ngồi trên lửa, chờ chúng gọi ra làm việc. Nhưng thời gian qua khá lâu không thấy gì xảy ra. Tôi biết anh Cự cũng thâm thù Cộng sản,và anh không khi nào hại người cùng chiến tuyến mà anh đã lựa chọn. Anh hiểu
Cộng sản, nên biết chọn cho mình cách cư xử đúng mực nhất để sống qua ngày.

Đỗ Văn Phúc
(Trích “Không nơi ẩn nấp - Trại Cải Tạo A-20, Xuân Phước”)



20/1/11

Ngày em đến thăm





















Bẵng một dạo từ khi rời trại cũ
Năm năm giữa rừng em tới thăm ta
Tội thân em gồng gánh vượt đường xa
Mà Phú Khánh mùa nầy trời mưa lũ

Em nhỏ nhoi vì đâu thêm vai nặng
Có sá gì một căn kiếp đời ta
Ta muốn ôm hôn khi em khóc oà
Cách mấy bước mà như xa vạn dặm

Xưa em ngoan môi hồng luôn thắm
Chỉ mới bao năm tóc đã màu phai
Xót cho em vì ta mà oan trái
Đau lòng ta, em gầy guộc hơn xưa

Ôm con thơ em đã khóc bao mùa
Chờ hết kiếp người xưa chưa quay lại
Em ơi về đi, em đừng trở lại
Nợ gối chăn nầy phải hẹn lần sau

Ta lỡ đã đi trên một chuyến tàu
Qua ga một đỗi rồi đi xa nữa
Bến đổ chưa bao giờ ta chọn lựa
Đi mà đi cho bằng hết hơn thua

Em ơi về đi, em đừng tới nữa
Đau chừng ấy rồi phải để em nguôi
Nghe lời ta, đừng bỏ con mồ côi
Với nó, ta thương mà không dám nhớ


nguyễn thanh-khiết
phân trại B – A 20, 1984



Kỷ niệm 19-6 nghĩ về những người lính VNCH?



Vũ Ánh/Việt Herald
(06/19/2010)

Thực ra, quân lực VNCH thành lập khá lâu trước ngày 19 tháng 6 năm 1965 khi các đơn vị trong quân đội quốc gia Việt Nam di chuyển vào trong Miền Nam Việt Nam dưới ảnh hưởng của Hiệp Ðịnh Geneve 1954 chia đôi đất nước. Khi nền Ðệ Nhất Cộng Hòa thành hình, các đơn vị này đã trở thành Quân Lực VNCH và bắt đầu phát triển và cho đến ngày 19 tháng 6 năm 1965 chính quyền VNCH và Hội Ðồng Quân Lực dùng ngày này làm Ngày Quân Lực.

A20 - Trại tù Xuân Phước



A20 Nguyễn Thành


Đây trời xanh  đây núi rừng Xuân Phước
Cửa đề lao ngun ngút lửa hờn căm
Những người trai nung chính khí âm thầm
Trong tay giặc giam cầm bao năm tháng .

Nhưng tình yêu nước và tâm hồn cách mạng
Vẫn trào dâng lai láng như trùng dương
Vẫn ngạt ngào như gió lộng ngàn phương
Như chan chứa trên vạn nẻo đường sông núi.