1/6/15

Cái Trọng Ty với "Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển"


 A20 Trần Yên Hòa

Tôi biết Cái Trọng Ty từ những ngày ở Trại Cải Tạo Suối Máu. Anh ở nhà 1, tôi ở nhà 8. Giữa 2 dãy nhà có một sân bóng chuyền, nên buổi chiều tôi thường hay ra đây đánh banh độ. Cái Trọng Ty không chơi banh, nhưng là một ủng hộ viên đắc lực. Ủng hộ đây có nghĩa chỉ là đứng xem rồi vỗ taycổ vũ một khi có một đường chuyền hay một cú bỏ bóng đẹp. La ó và vỗ tay râng trời là của đám đứng bên ngoài. Chuyện vui ở trại cải tạo chỉ có thế. Anh là bạn của Hải cà (Hải sau này ra Xuân Phước trốn trại bị bắt lại, bị biệt giam gần năm trời). Hải cà là bạn với Cái Trọng Ty, cùng người Huế. Tôi quen với Hải từ ngày làm ở Bộ Tư Lệnh QĐI & QK1, nên qua Hải tôi quen Cái Trọng Ty.

Thật ra, quen là chỉ quen vậy thôi, biết mặt nhau, chào hỏi nhau vài câu chứ không thân lắm. Nhìn gương mặt và con người Cái Trọng Ty rất thật thà, giản dị, có lẽ anh lớn hơn tôi mấy tuổi. Những lần gặp nhau như vậy chỉ trao đổi những chuyện tào lao xịt bợp, không đâu vào đâu. Không bao giờ và chưa bao giờ nói với nhau một tiếng về "Thơ" cả.

Mãi đến những ngày sau này, khi tôi đã qua Mỹ, đã góp một ít bài viết trên các báo, tạp chí…Và khi tôi tìm gặp lại được ông thầy dạy cũ, ngày trung học của tôi ở trường Trần Cao Vân, Tam Kỳ, là nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư, và cả đến khi Trần Hoài Thư làm chủ biên Thư Quán Bản Thảo, tôi mới gặp một tác giả ký tên là Cái Trọng Ty, đã có những bài thơ rất hay đăng ở đây. Cái Trọng Ty nào vậy cà? Có phải là Ty bạn tù với mình không? Nếu một cái tên như Dũng, như Quang, như Hoàng chẳng hạn, thì có thể trùng nhau được, nhưng một cái tên Cái Trọng Ty…một tên rất lạ, khó có thể ai trùng lặp được.

Rồi sau đó, không biết, tôi tìm anh trước hay anh tìm tôi trước…Hình như anh đã gởi bài cho Web Bạn Văn Nghệ của tôi, và từ đó chúng tôi nối kết tình Thơ với nhau…Đến một ngày… tháng… năm 2011 thì phải, Cái Trọng Ty, đi dự Đại Hội cựu tù Suối Máu ở San Jose, và anh về Nam Cali thăm khu Little Sài Gòn, tôi mới gặp lại anh ở khu Phước Lộc Thọ…đúng là Cái Trọng Ty, người bạn tù của tôi…cũng gần hơn 30 năm mới gặp lại…một người.

Bây giờ xin vào đề:

Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển.

Trước đây, Cái Trọng Ty có làm một CD Thơ của anh, với những giọng ngâm khá nổi tiếng ở VN như Hồng Vân, Ngô Đình Long…nghe cũng rất hay, nhưng lời ngâm thường thoáng qua tai nên không thấm bằng đọc, nên lần này, Cái Trọng Ty gởi biếu tôi tập thơ đầu tay của anh Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển, tôi đọc chăm chỉ hơn, trân trọng hơn, nên nay tôi xin viết ít lời giới thiệu cùng độc giả xa gần.
Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển là tập thơ đầu của Cái Trọng Ty.

Sách do Thư Ấn Quán xuất bản tháng 4 năm 2015. Tranh bìa của họa sĩ Đinh Cường. Trình bày bìa: Phạm Cao Hoàng. Tranh phụ bản: Đinh Cường, Thân Trọng Minh.

Sách dày 175 trang, in đẹp với bìa láng, gồm khoảng 66 bài thơ của Cái Trọng Ty và  Phụ trang gồm bài của 3 tác giả viết về Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển là Phạm Văn Nhàn, Phan Xuân Sinh, Lương Thư Trung.

Trước tiên, qua lời Giới Thiệu của Nxb Thư Ấn Quán (hay của nhà thơ Trần Hoài Thư) như sau:

“Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển” là những nỗi niềm của một người lính cũ miền Nam.

Chỉ một câu ngắn như vậy là tôi đã thích rồi, bởi vì tôi cũng là một người lính cũ miền Nam.

Thôi thì đọc tiếp theo để nghe Trần Hoài Thư viết gì thêm:

Nó như có ma mị dẫn dắt người yêu thơ đi trên con thuyền “Thơ” của một người lính một thời cầm súng, một thời tù đày. Nó như dòng sông thơ bất tận chảy mãi. Khi thì tình yêu bao dung bát ngát vô lượng. Khi thì dào dạt tình đồng đội thủy chung. Khi thì uất nghẹn như bật lên trên những giọng rỉ máu, đau xót đến tận tâm can. Khi thì hào khí ngang tàng của một thời ba lô và nón sắt….

Như vậy đây chính là thơ của một người lính cũ, người chiến hữu của tôi. Để coi vào tập với bài đầu tiên:

Đó là bài:

Tháng tư bẻ súng.

Bởi tình tụ tán từ muôn kiếp
trăng nửa phần trôi trôi lênh đênh
chiều quanh bếp muộn thềm thôn vắng
cuộc rượu đêm tàn vỡ chén xưa 
Lương Sơn xa lắc đồi rỉ máu
ngựa cuồng quay quắc chiến trường xưa
đồng đội cũ đâu lưng nỗi chết
ngẫm chung thân cuộc thế phiêu du

biển gầm núi hú quân tan rã

….
(trang 7)

Đó là tháng tư bẻ súng chứ không phải là tháng tư gãy súng. Hành động bẻ súng là hành động của mình, mình tự làm bởi vì quanh quẩn quan quân đã tan tác…thì còn giữ súng làm gì. Tôi nghĩ hành động bẻ súng là một hành động bi thương, kèm trong nổi thất vọng khôn cùng về những ngày cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam trước 30-4-1975.

Quân về xuôi tan tác phương Nam
mịt mờ chiến trận
mây lửa mông mênh
chênh vênh biển dựng sóng phù hư
tình chiến chinh một đời tan vỡ
 (trang 8 & 9)

Đó là nổi đau thương của người lính thua trận, là tiếng thét tuyệt vọng trước khi qụy xuống, cả một triệu lính với mọi sắc áo mà phải bẻ súng như vậy sao?

Tiếp theo là những bài thơ như là hành trình đời lính của Cái Trọng Ty. Đời lính xô giạt anh và bè bạn nổi trôi khắp chốn, từ Tuy Hòa, Kontum, sông Mao. Những bè bạn Lý đui, Cường đakao, Phong quá tải, bên bàn rượu, ngoài kia là chiến trận:

Chuyện trời ơi
chuyện gái gù râm ran
những con người
những cái chết như mây
những kiểu chết nhẹ hều như gió
(trang 11)

Đó là một trong những người lính một thời của Cái Trọng Ty. Đọc đến đây, tôi tự nhiên thương mình, thương bạn. Ừ thì chúng ta cùng gặp nhau ở một mẫu số chung, là ngày xưa cùng là lính, cùng biên cương hành đâu có khác nhau đâu.

Thêm một bài thơ tôi rất thích:

Đời lính

ném ba lô quăng luôn nón sắt
ta thở phào duỗi thẳng đôi chân
nghìn cân gánh nặng vừa buông xuống
chiều Tuy An chờ đợi chuyển quân

anh bạn chiến trường thèm xị đế
sương chiều trắng sữa nhớ làng quê
xa nghe âm vọng gầm sắt thép
thần chết chờ mi góp núi xương

gió xoay lửa khói mùi hung khí
mìn bẫy địch gài trên lối đi
mấy khi còn sống không thương tật
vợ con thôi thế cũng đành thôi

người về con nước tràn sông Lũy
những địa danh nặng nợ máu xương
anh bạn xác vùi trong túi xách
ta đưa người về tận cố hương

ta người chia chác đời cơ cực
sống cũng như mây chó cỏ thi
chiều qua đụng trận vùi thân xác
thịt xương tan mồ mả ích gì

đời lính nở tàn như nấm rạp
sớm triền đông chiều chết đồi tây
trượng phu ghê gớm cây trụi lá
tình em đành níu đám mây qua
(trang 113, 114)

Tôi đã qua đời lính, đã từng đi hành quân, đã là một người lính trận, đọc bài thơ này mới thấy thấm thía một nỗi buồn của người lính tác chiến. Thơ Cái Trọng Ty viết về người lính không hô xung phong, không kèn xung trận, không kêu gọi bắn giết, không khẩu hiệu gì cả. Đó là thân phận của một con người, giữa cái chết và sống, giữa còn và mất, của xác thân. Nó mang nổi buồn thê thiết của một kiếp người “sớm triền đông chiều chết đồi tây”.

Thơ Cái Trọng Ty mang mang một nỗi buồn, chàng nhìn đời bằng con mắt vô ưu của kiếp người vô thường, cả trong tình yêu trai gái, với anh, với thơ anh, là những câu chữ hiền hòa, nhỏ nhẹ, như tiếng kinh bát nhã, như bài kệ…tất cả chìm ẩn trong sương khói mơ hồ, dù bên đời bao nhiêu chuyện xảy ra, như bài lục bát mắt bão sau đây:

khởi duyên từ cội vô thường
em duyên hạt bụi thiên phương dặm đường
nòi tình một đóa hồng dương
tiếng mơ hồ gọi vô phương kiếp người

buổi thế gian lạnh tiếng cười
thân tôi ở trọ đười ươi cố cùng
em đi xa khuất hoài dung
tìm em khắp chốn trên vùng dôc mơ

Khắp tập thơ Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển là những tấu khúc êm đềm, nhẹ nhàng và rất thơ như thế.

Tôi đọc những bài thơ của Cái Trọng Ty trong một buổi chiều sau 30-4. 30-4.15 gợi tôi nhớ vế bốn mươi năm trước, những ngày thất vọng nhất của người lính bại trận. Hôm nay đọc những lời thơ của Cái Trọng Ty, tôi thấy lòng mình thanh thản hơn, nó như có một phù phép nào đó lôi tôi ra khỏi cơn mộng dữ 40 năm. Thơ Cái Trọng Ty làm cho tôi tỉnh lại, như người vừa đi qua những chặng đường gai lửa, tôi đã an nhiên, tự tại và êm đềm theo những câu thơ của anh.

Tập thơ Cái trọng Ty đã dẫn tôi đi suốt những chặng đường anh đã đi qua, những địa danh miền trung nước Việt, từ Lương Sơn, Phan Rí, Phan Lý Chàm, Trảng Táo, Chợ Lầu, Bình Định, Phú Phong, Sông Côn…những địa danh tôi chỉ nghe tới chứ chưa đến bao giờ. Bây giờ đọc lên nghe thấp thoáng những hình ảnh quê hương rất cảm động.

Cảm ơn Cái Trọng Ty cho tôi được đọc những bài thơ rất đẹp của anh, lời thơ anh nhẹ gọn, không cầu kỳ, nhưng không phải anh không có những từ hay và mới.

Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển chỉ in để biếu chứ không bán, bạn đọc yêu thơ khắp nơi muốn có một tập thơ hay, in đẹp, xin hãy liên lạc ngay với tác giả Cái Trọng Ty ở địa chỉ email:

tycai46@yahoo.com
hoặc điện thoại:
(832) 538-2585

Chúc Mừng Cái Trọng Ty đã  có một tập thơ hay trình làng. Mong anh có thêm những đứa con tinh thần xuất sắc trong tương lai nữa, nhé.

 Tình thân.
Trần Yên Hòa
1.5.2015




30/4/15

Chiến trường mê sảng


buồn mà chi liên ơi
mai anh về bên kia biên giới
thấy bóng phù dung nở giữa đường
chiến trường mê sảng mùa tao loạn
áo bạc màu
giày trận rách bươm

anh là ai
người lính bộ binh
buổi sáng tháng ba
đau lòng xót dạ
đứng bên bìa rừng
quốc lộ một về phan lý chàm
em chạy từ đâu đà lạt vỡ
dấu chân trần những vạt máu khô
đèo đứa con thơ giữa ngày nắng rộ
chạy về đơn dương
chạy về phan thiết
trong áo trận còn nhúm tiền lương
vừa mới lãnh trao hết cho em
cho người lính chiến
phòng tuyến vỡ mặt trận tây nguyên
ôi thân thế đoàn hùng binh phá sản
đơn vị tôi còn bám trụ quận hòa đa
ngơ ngác thơ ngây cuộc chiến chết chùm
ngày tháng tư đen
đành đoạn bỏ chiến hào

phẩn nộ làm sao
chưa chạm mặt quân thù
hậu phương rã đám
sếp lớn ăn trùm
chiến trường cuốn chiếu
cuốn tròn canh bạc chẳng lối ra
bẻ súng ném gươm
tàn mộng vô thường
anh hùng cơn lốc qua cửa sổ
chinh chiến bao năm bị gậy ra đường

A20 Cái Trọng Ty
                 40 năm, tháng Tư  1975-2015


25/2/15

A20 Ánh Lửa Giữa Đêm Trường.



A20 Phạm Văn Thành


Phần 1: Ánh lửa giữa đêm trường

Tháng 10-1994

An ninh trại đã chuyển toàn bộ đội 12 từ nhà 4 sang nhà số 2. Toàn bộ đội nhà bếp từ nhà 3 sang nhà số 1. Trong nhà số 1 có những cá nhân tiêu biểu là ông Lê Văn Sơn, thuộc Phật Giáo Hòa Hảo nhiều tuổi nhất, thượng tọa Tuệ Sĩ, tăng sĩ Nguyễn Hữu Tín và tăng sĩ Lê Hiền. Bên Công giáo có linh mục Nguyễn Hiếu dòng Đồng Công Thủ Đức.Từ Thái Lan về , lực lượng ông Trần Văn Bá có Trương văn Sương, lực lượng của ông Hoàng Cơ Minh có Đinh Văn BéĐỗ Bạch Thố. Hải ngoại có Lê Hoàn Sơn là người từ Pháp về cùng vụ án với tôi .

10/8/14

Người chết lo cho người sống

  
A20 Vũ Hùng Cương thư cho tôi, chỉ vắn tắt một câu “đây là email của phu nhân Vũ Ánh”. Một câu nhắn gãy gọn nhưng nó chứa biết bao nhiêu điều để nói, để làm.
Tôi thư cho chị Yến Tuyết, vợ anh Vũ Ánh, người chị dâu tôi chưa bao giờ biết mặt. Hai chị em bắt tay vào việc thực hiện tâm huyết của người đã ra đi.

Khi còn sống anh chú bảo chị hãy xuất bản quyển Thung Lũng Tử Thần gây quỹ giúp cho các cựu binh A20 còn ở lại Việt Nam, đó là tâm nguyện cuối cùng của anh ấy


24/7/14

Điệu nhạc Nam Ai


khúc nam ai 1

Biết đến bao giờ được về trên bến  ấy
vỗ mái chèo con khua bóng  núi Ngự bình
hát tiếng người xưa
cuộn nhàu chăn chiếu
cho quên hết những lối buồn sạn đạo

cho đêm dài ủ kín điệu tình ca
chèo thôn nữ dập dình sông trắng bạc
ta sẽ hát khúc cuồng ca lã chã
giọt rượu buồn vương tiếng nước khôn khuây
sông dẫu vắng vẫn gào lên núi rộng
mảnh tình riêng xao xác bóng sơn hà .

… còn lại gì sau năm dài hiu hắt
khúc tù ca tan tác đóa xuân xanh
bốn mươi năm vời trông tường thủy mặc
lạnh lời ca rợn khúc hát cô hồn.

Ta còn gì giữa đời ta lật bật
mộng về đâu dan díu lối mơ xưa
đâu phế tích
đâu tàn hoang cõi tạm
đâu ngọc ngà
đâu sương khói phôi pha.

A20 Phạm Văn Thành 
nhớ Nguyễn Thành .
14.7.2014

***

khúc nam ai 2

Em đã quên mùa thu 
mang theo cơn bão ối đỏ bầu trời
Em đã quên mùa  đông
những tháng năm lạnh đầy muôn lối tuyết ?

Mùa xuân hôm qua
mùa xuân hôm nay
sao thấy thiếu những điều thật lạ
những điều mà tiềm thức xa xôi
cả em anh chưa bao giờ biết nói,

Miếng cà muối sổi !
Bát canh cua đồng !
Thúng bún bên đường !
Hàng hiên nhà ai cơn mưa chiều vội vã,

Con ong bầu ú nụ
bay lượn trên giàn mướp im lìm…
Côị mít nhà ai
 lăn tăn chùm dái chát sượng sùng xanh ngắt…
  
Mùa xuân như là đấy
mơ hồ diệu vợi
gần gũi !
xa xôi !
như thoảng tiếng gà trưa
ba mươi năm rồi không còn nghe thấy nữa !

Gặp em giữa chặng đường mơ non nước
vòng tay gầy ôm xiết một mộng mơ
tình trong vắt nở thơm mùi cỏ dại
phút tương phùng đồng đội đến rồi đi !

Mùa thu, em ơi rồi sẽ qua
và mùa xuân thắm sẽ về trên bến nước
những mùa đông tuyết mù tịch mịch
sẽ không còn lạnh giá nữa em ơi,


cuộc hành trình dẫu còn hay sẽ mất
thì thân ta nào có nghĩa gì
một bông hoa mướp rực vàng 
vặt cho tôi nhé
những ngày gặp nhau.

 A20 Phạm Văn Thành
Lagny 23.7.2014
  
***

Khúc nam ai 3

Rồi sẽ qua những tháng ngày buồn thảm
Mặt trời lên khua con nước êm đềm
Thuyền vỗ sóng dập dình  đêm trăng tịnh
chảy về xa heo hút chuyện tình già

Em sẽ hát khúc ru hời ngọt lịm
nhặt vầng trăng xô sóng vỡ trên tay
tôi sẽ hát bản trường ca lịch sử
vung mái chèo đập nhịp tráng bi ca !

Ô ! Giòng sông 
như chảy tràn lên thổn thức
vực nông sâu khua xiết giấc cô liêu
đâu như tiếng cùm xiềng !
làm rổn rảng đáy thuyền chao năm tháng !

Ðàn lên đi em ơi !
cho quên hết những đêm trăng vàng úa !
hát nữa đi em
lời ru thì thầm của ngày xưa mẹ hát

cho dù ta đã bạc đầu
cho dù năm tháng chẳng còn bao lâu
cho dù  trăng sáng sông sâu
cuộc vui vầy lớn
vắng ta đi về.

A20 Phạm Văn Thành
          Paris 23.7.14



22/7/14

Chương Trình Chiêu Hồi Của Việt Nam Cộng Hòa




BS. A20 Hồ Văn Châm


Chương trình Chiêu Hồi của Việt Nam Cộng Hòa được xây dựng và tiến hành trên nền tảng chính sách Đại Đoàn Kết Dân Tộc. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chủ trương lấy tình thương xóa bỏ hận thù, chân thành mở rộng vòng tay đón tiếp những anh chị em ruột thịt chiến đấu trong hàng ngũ cộng sản, lầm lạc phục vụ chủ nghĩa cộng sản mà tưởng là phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc. Tất cả các cán binh cộng sản ra hồi chánh, bất kể quá trình hoạt động bản thân trong hàng ngũ cộng sản như thế nào, nếu ý thức sự lầm lạc trong quá khứ, và nhiệt tình phục vụ lý tưởng tự do dân chủ, đều được phục hồi đầy đủ quyền công dân và hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng dân tộc.





14/7/14

Câu chuyện cùm thứ hai: Long, Thành, Hòa


 A20 tháng Chín 1993. 


Từ đường ngoài cổng thăm nuôi, đi qua dãy nhà cơ quan, bước qua cổng trại giam sẽ thấy ngay bên tay mặt là hai dãy nhà của khu A. Ðó là nhà 1A và 2A. Nhà 1A và 2A nối với nhau bằng một khu nhà cầu xây bệ cao chừng 80cm. Mỗi nhà cầu có bốn bệ ngồi, ngăn cách nhau bằng những bức tường lửng cao chừng 70cm. Hai nhà là 8 bệ cầu. Giữa 8 bệ cầu có một tường bê tông xây bít để ngăn cách riêng biệt cho hai nhà. Mỗi bệ cầu có một lỗ thông 18/20cm để phân lọt xuống một cái thùng sắt đã để sẵn, có lối thông ra phía tường sau của hai nhà buồng. Mỗi sáng, tù trực sinh sẽ khênh các thùng phân ra ngoài các đội để hoặc cho cá ăn, hoặc tưới cho các luống rau muống.

Khu nhà buồng 1A và 2A có tường cao 2,50m chung quanh. Trên đầu tường là hàng rào kẽm gai, giăng mắc nhiều làn dây điện nối với nhà máy phát điện độc lập của trại. Kiến tạo cũng y như vậy với khu nhà 3A, 4A. Ðây được coi là các khu nhà giam nhốt những tù trọng án.

13/7/14

Câu chuyện cùm thứ nhất, Trương Văn Sương.


Anh em Fulro đem vào trại cho tôi một con chó. Đây là một con chó loại chó cỏ, mình như con sóc với bốn chân thẳng thanh thoát. Con chó trắng, lông ngắn mịn, đầu mặt cân đối bốn chân móng trắng ngà và đầu vàng, trên lưng vá một đám lông vàng cháy, không lẫn một sợi đen nào. Nhìn con chó trong tay Y Rưới, đang đứng bên cửa nhà bếp chờ tôi ra, tôi sững người, miệng lẩm nhẩm “bạch khuyển hoàng đầu thân bối nguyệt”, một trong đệ nhất phúc khuyển tướng pháp ! Sao lại có cảnh oái oăm thế này. Y Rưới cười cười bẽn lẽn nhìn tôi:

-          Ngoải kêu em đem dô biếu anh cho anh đỡ buồn !

Tôi bần thần đỡ con chó, cởi sợi dây gồi chắc Rưới đã bện công phu. Y Rưới la lên:

-          Nó chạy mất giờ anh.


BÀI THƠ LƯỠI VÀ RĂNG

       
Lưỡi răng tỉ sánh đức so tài
Hưởng trọn béo, chua, mặn, ngọt ,cay
Răng cứng tôi em vâng lệnh bảo
Lưỡi mềm anh, chủ đủ quyền oai
Hai hàm tương sát bao lần diệt
Lưỡi giữa hòa nhân thọ, dẻo, dai
So sánh hai đàng đều rõ lý
Răng thì thua lưỡi đức hơn tài


Thích Thiện Minh

12/7/14

BÀI THƠ CON CUA


Ở đời có mấy kẻ đi ngang
Ỷ lớn béo to có một càng
Ló mắt chẳng phân người phải quấy
Quờ càng chẳng lựa kẻ ngay gian
Thả mình theo nước hềm không ruột
Lột vỏ già đời chẳng thấy gan
Gặp lúc tối trời thì kể chắc
Nghe hơi biến động rút vào hang

Thích Thiện Minh



                        

8/6/14

Vũ Ánh Và Tôi – Chung Một Đoạn Đời



A20 Phạm Đức Nhì

(Xin gởi đến hương hồn anh Vũ Ánh
như một nén nhang tiễn biệt.
Và đến chị Yến Tuyết
như một lời chia buồn muộn màng)

Một Tâm Hồn Trẻ Trung Sôi Nổi

Ngày đầu tiên bị giải đến Trại Trừng Giới A20 Xuân Phước, tất cả chúng tôi – thành phần cứng đầu, khó cải tạo từ các trại - bị lùa vào hội trường để được dằn mặt và đưa vào khuôn phép. Mở đầu là màn văn nghệ ca tụng đảng và nhà nước có tính cách bắt buộc. Cán bộ giáo dục yêu cầu một người tù trong chúng tôi ra bắt giọng cho mọi người hát một bản nhạc cách mạng để lấy khí thế. Hối thúc hoài cũng chẳng ai thèm ra. Cuối cùng, khi hắn giở giọng đe dọa thì tôi nóng mặt đứng lên bắt nhịp cho anh em hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của Nguyễn Đức Quang. Được gãi đúng chỗ ngứa anh em hát muốn bể tung hội trường. Cán bộ giáo dục và ban thi đua ú ớ chẳng biết gì nên dù "ngờ ngợ có cái gì không ổn" cũng không làm chi được. Sau buổi họp, mấy bạn trẻ như Tú Cường, Nguyễn Hữu Hồng... đến bắt tay tôi tỏ vẻ đồng cảm và ngưỡng mộ một hành động nhanh trí và can đảm, giữa đường thấy chuyện bất bình thì phản ứng liền. Đám trẻ của chúng tôi là như vậy. Tôi bắt tay các bạn một cách vui vẻ rất... bình thường. Riêng anh Ánh, lúc ấy đã gần 40, vẻ mặt trí thức, chững chạc đến vỗ vai, bắt tay tôi đã là... đặc biệt rồi. Anh lại còn ôm chặt tôi ra vẻ rất quý mến: "Tôi tưởng cậu hát nhạc của tụi nó nên đã muốn chửi thề trong miệng, nhưng khi nghe câu hát đầu tiên tôi khoái quá, hát muốn khàn cả cổ". Tôi với anh quen nhau, gần gũi nhau ngay từ hôm ấy. Sau này ra hải ngoai anh còn viết bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ Của Nguyễn Đức Quang Trong Nhà Tù Cộng Sản kể lại sự kiện này. Tôi có cảm tưởng ở cái tuổi của anh lúc ấy, đối với một sự việc bình thường như vậy, thái độ "nóng máu muốn chửi thề" của anh, thật giống bọn trẻ chúng tôi: Rất Trẻ Trung Và Sôi Nổi.


19/5/14

Ngày 18-05-2014




Bên nhà thờ là mặt nạ, dùi cui
trước tượng mẹ công an ghìm tay súng
Sài-Gòn 18 tháng 5 đầy hận tủi
đã cạn cùng cho ý thức bao dung
nối giáo giặc tra tấn người yêu nước
đem bạo quyền trấn áp tiếng dân than
toàn dân xuống đường chống quân xâm lược
chính quyền còng tay, đánh đập dã man
còn đâu thuở cha ông từng khổ nạn
dựng một non sông lừng lẫy bao đời
đất nước còn nhưng mất nửa giang san
pháo giặc đã vượt đường qua biên giới
biển mất, thành sắp tan ôi trời hỡi !
đảng cầm quyền chỉ trấn lột toàn dân
Việt Nam tôi vô phương rồi người ơi
quân là đám côn đồ sao lâm trận?
Việt Nam tôi sắp mất rồi người ơi !
Việt Nam tôi sẽ mất hỡi người ơi !
A20 Nguyễn Di Ngữ

18/5/14

Tháng 5 - ngày chủ nhật


Bạn có thấy không một bầy lang sói
cắn xé đồng bào ruột thịt đáng thương
khi biển đông giặc chễm chệ dựng dàn khoan
phía biên giới trùng trùng quân xâm lược
giữa Sài Gòn - một ngày chủ nhật
mặt nạ dùi cui, hàng rào - một lũ công an
đám giết người đứng chật lối dọc ngang
thẳng tay đàn áp dân yêu nước
Sài Gòn dưới mặt trời chói chang
có vết sẹo tháng 5
gạch dấu đau trong lòng dân Việt

ngày chủ nhật không còn nước mắt
để khóc cho đất nước lầm than
mẹ Việt Nam đã nuôi nhầm một đám con hoang
kéo nhau dẫm lên xác người cùng giống
Ôi Sài Gòn, bên nhà thờ Đức Mẹ!
một ngày chủ nhật - tháng 5
áo vàng, áo xanh 
áo bán nước, áo hại dân
dưới cờ máu, làm Việt Nam thêm chảy máu

A20 Nguyễn Di Ngữ
ngày 18-05-2014


1/5/14

CUỐI CÙNG...


           Gởi Út-Khiết

Tháng Tư giặc xua quân đánh chiếm
đốt ruộng vườn nhà cửa xác xơ
trung-đoàn giặc tràn qua thôn Chín
xác mẹ già xen lẫn trẻ thơ.

Tao dắt tiểu-đoàn qua suối Chết
đuổi giặc chạy dài tận sân bay
địch đón tao một trung-đoàn pháo
xé tiểu-đoàn rách nát làm hai.

Trước mặt tao trung-đoàn Quyết-Thắng
sau lưng tao trung-đoàn Sông-Mao
xác bạn, xác thù... thây chất đống
thịt da tan tành trong binh đao.

Dắt tàn quân băng rừng vượt chốt
nghe ông Minh ra lệnh đầu hàng
giữa núi đồi... tao ôm mặt khóc
non nước mình ai quấn khăn tang !

---------------

Khi nào mầy về thăm Võ-Đắt
hãy thắp giùm tao một nén nhang
mầy muốn cắm nơi nào cũng được
nơi nào cũng phủ một màu tang.

A20 Lê Phi Ô
30/04/năm thứ 39