6/5/11

KỶ NIỆM NỔI TRÔI CÙNG TRÍ NHỚ


                                                                                      Tống Phước Hiến
 

          Tôi là một trong những người trai sinh và lớn lên giữa thời tao loạn. Lý tưởng dâng cao theo những bài sử bi hùng oanh liệt, bất khuất. Hồn quê và hồn người hòa nhập nên cũng lãng mạn và cũng ngây thơ trong sáng. Tôi không nhớ ai đó đã vẽ chân dung chúng tôi:

                   Cứ cộng năm thằng đủ chẵn trăm,
                   Những thằng mười tám tới hai lăm
                   Bán trời không chứng, thiên lôi đả
                  Trời rủa cho rằng lũ chết băm !

          Đêm đêm bên ngọn đèn dầu tù mù, lâu lâu những tiếng đại bác từ xa xa vọng lại, chúng tôi ngừng học. Những suy tư vây quanh ý sống! Giòng sống đưa chúng tôi dần xa tuổi ngọc. Rồi áo trận thay áo trắng thư sinh. Và rồi, tiếng súng không còn xa xa vọng lại mà ngay sát cạnh cuộc đời. Lâu lắm và may lắm vài thằng bạn ngày xưa bất ngờ được gặp. Và cũng ai đó nói giùm tâm tư kẻ tha phương giữa đêm trừ tịch nơi chúng tôi phải ngăn quân thù trên từng thước đất quê hương:


                      Ba năm không về thăm Mẹ
                      Chiều nay nằm với sương phong
                      Bốn năm không về thăm chị
                      Chiều ngả nghiêng dâng trong
                      Nghe giữa chiều hoang pháo nổ
                      Mây còn nổi ở đầu sông
                     Còn có ai về gõ cửa
                      Mà với tay về trong không

                            Ừ mai, ừ mai nhớ về nhé!
                            Sao con không về – Mẹ trông ?
                            Ừ mai, ừ mai nhớ về nhé !
                            Sao em không về – chị mong ?
                            Dan dúm cùng lửa đạn
                            Về thì làm sao tang bồng .

          Lâu quá, trí nhớ mòn hao khá nhiều, dù cố gắng vẫn không thể nhớ tên tác giả và e rằng những câu thơ trên không nguyên vẹn chính xác. Xin cúi đầu tạ lỗi và mong chờ lượng thứ.

          Vâng, chúng tôi chiến đấu trong thể chất thanh niên tràn đầy lý tưởng với một tâm hồn như thế. Sau bao năm lăn lóc cùng đao cung súng đạn, sống chết cận kề, chân dung chúng tôi vẫn như thế. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi vừa bàng hoàng ngơ ngác, vừa xót sa thân phận phải rời xa chiến trận.

          Ngày xưa, vì giành sự sống cho chính mình, cho đồng đội và cho lý tưởng mà mình tin tưởng là tương đối đúng hơn; nên đạn phải lên nòng cơ bẩm, và ngón tay phải xiết cò. Nhưng chúng tôi đã không gạch thành rõ nét Và cứ thế, chúng tôi lại lãng mạn, lại ngây thơ, dùng đôi mắt thật thà tìm giòng máu Việt Nam đang luân lưu trong mỗi cơ thể của nhau. Chúng tôi không tin vào chủ nghĩa mà họ theo đuổi, nhưng chúng tôi nghĩ rằng chất Việt Nam trong máu họ vẫn chưa biến đổi, nhạt màu. Mang tâm trạng ấy, chúng tôi đi vào xã hội do người cộng sản thống trị.

          Xã hội mới này hằn sâu trong tôi nhiều vết thương, có cái đã thành sẹo, có cái vẫn còn tấy sưng đau đớn và hầu hết còn di lụy nặng nề trên mạng mạch quê hương. Dưới đây là một vài kỷ niệm trong vô số kỷ niệm. Bài viết này chú trọng vào vài kỷ niệm tại trại giam A.20 còn được gọi là trại kiên giam, trại trừng giới, thung lũng tử thần... Vì giới hạn, nên chúng tôi chỉ xin vắn tắt tâm sự. Đã là tâm sự thì cũng xin được nổi trôi, không xếp đặt thứ tự, và cũng không bố cục chặt chẽ.

                                                        ***

          Nói đến cộng sản mà không đề cập đến lừa gạt là không đầy đủ bản chất thật của cộng sản. Kỹ thuật lừa gạt của cộng sản đạt đến mức thượng thừa. Bạn hỏi xem bất cứ ai trên cõi nhân sinh từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây tự động đóng tiền để xin được đi tù không? Khó tin, nhưng là sự thật. Ai thế? Xin thưa, đó là những người đã trưởng thành, có học vị, cũng từng giữ chức vụ chỉ huy từ Hành chánh, Chính trị đến Đảng phái, Quân đội; từ kẻ thừa hành đền người lãnh đạo Miền Nam. Nhiều lắm, nhiều lắm... trong đó có cả tôi ! Tất cả những người này đều đã làm cái chuyện khó tin nhưng có thật đó là đóng tiền để đi tù !

          Nền giáo dục Miền Nam dạy dỗ chúng tôi về lòng nhân ái, về tình tự dân tộc, về những gì thuộc nhân cách làm người. Nền giáo dục ấy dạy rằng, trong vị thế phải cầm súng, chiến đấu vì sự tồn vong của Tổ Quốc, thì trên chiến trường, súng trong tay, người lính cần phải nhanh chóng thanh toán mục tiêu để tự vệ, để giành chiến thắng. Nhưng khi súng đã không còn trên tay thì kẻ đó là không còn là kẻ thù mà là đồng loại, đồng chủng và cuộc sống của họ cũng cần phải được tôn trọng.

          Những tấm hình có ngôn ngữ mà các phóng viên ghi nhận từ trong lửa đạn, ngay trên chiến trường, đã mô tả được bản chất rất thật, rất cao thượng và cũng rất lãng mạn. Đó là hình ảnh một chiến thương cộng sản, không còn khả năng chiến đấu, đang trong tư thế đau đớn quằn quại, trên người chỉ còn manh chiến y không nguyên vẹn, đang được hai chiến binh Việt Nam Cộng Hòa tiếp nước cứu sống. Hoạt cảnh ấy mô tả lại: Một người lính VNCH nâng đầu người lính CS và người lính CS này đang uống giòng nước ân tình từ chiếc bi đông của một chiến sĩ VNCH khác.

          Một hình ảnh khác cùng một bối cảnh, cũng lãng mạn một cách cao cả; và cũng cay đắng tàn bạo một cách đê hèn. Đó là một chiến sĩ VNCH cõng trên vai một thương binh cộng sản chạy song song cùng với một chiến binh VNCH khác cũng trên vai đang cõng một đồng đội chạy lao về chiếc trực thăng mang dấu hiệu cứu thương Hồng Thập Tự trên nền trắng đang chờ tải thương binh giữa cảnh mịt mùng khói súng và những đợt mưa pháo liên tục của cộng sản lợi dụng tải thương để sát hại thêm những người đã mất khả năng chiến đấu và cũng không thể chiến đấu vì phải cứu đồng đội, cứu luôn cả kẻ thù vừa mới nhắm bắn vào mình và nay cũng là thương binh đang lâm nạn.

          Tại quân y viện, hai người lính, từng là tử thù trên chiến địa, nay đều là thương binh, đều là những mạng người và đều phải được cứu sống. Người chiến binh kẻ thù được đối xử, được tôn trọng như những con người. Tôi không thêm bớt, không điểm tô. Tôi hãnh diện được chiến đấu trong hàng ngũ của đội quân ắp đầy tình người ấy. Tôi không hổ thẹn khi đọc và học những trang quốc sử của Cha Ông và tôi sẽ mãi mãi như thế, dù rằng có thể đó là một trong những lý do khiến chúng tôi thất trận; nhưng đó cũng là hành trang để chúng tôi nhập cuộc chiến đấu mới. Dù cuộc chiến nào, chúng tôi vẫn phải là kẻ kế thừa mạch sống lịch sử, chúng tôi có nhân cách, có trái tim thuần Việt, có chính nghĩa. Đó là lý do khẳng định rằng, chúng tôi chỉ thất trận chứ không hề thua cuộc.

          Từ những giòng tâm sự trên, minh định chiếc áo trận của chúng tôi gói bọc ý thức tự vệ, và tấm lòng thật thà nhân ái. Tổ quốc, tình người gắn liền với kiếp nhân sinh trong cuộc sống. Vì không biết lừa gạt, nên đến khi biết mình bị lừa gạt thì sự phẫn giận vụt bừng bừng lớn dậy như triều sóng. Kẻ thù nhìn thấy được tư cách đáng nể trọng nhưng vô cùng hiểm nguy cho sự tồn vong của họ và thế là Trại giam trừng giới A.20, trong mật khu Thung lũng Tử Thần Kỳ Lộ được thiết lập. Mỗi người tù trong trại giam tử thần này đều có thời gian thai nghén và hình thái biểu lộ sự phẫn hận. Tôi không thể thay thế những chiến hữu ấy của tôi, dù rằng hoàn cảnh và tâm sự rất gần nhau. Tôi chỉ xin nói vài kỷ niệm mà tôi còn nhớ trong những ngày anh em chúng tôi thể xác hao mòn tàn tạ, nhưng tinh thần và ý chí vững vàng để cùng bảo vệ cho nhau, CÙNG DÌU NHAU VƯỢT QUA CỬA TỬ THẦN.

          Và câu chuyện xin được bắt đầu:

          Sau hết hạn mười ngày, phía cộng sản vẫn bình thản, được hỏi thì họ né tránh. Tiếp theo là những lời giải thích vu vơ xấc láo: Nào là cần phải tiến bộ, nào là xã hội cần ổn định, nào là vì bảo vệ an ninh bởi sợ nhân dân trả thù... Rồi những đòn thù trừng phạt được xuất chiêu. Những đoàn sát thủ đến từng mỗi trại giam đe dọa tù dưới lớp áo gọi là Tòa Án Đặc Biệt và họ hèn hạ bắn chết tù – những người không có điều kiện tự vệ, những người đã vì cả tin vào họ mà phài sa cơ thất thế! Sau những phát đạn thảo khấu đê tiện đó là một loạt những chính sách đốn mạt lưu manh ti tiện.

          Ngoài đời thường, chúng thực hiện chính sách: Kinh tế mới, di dân, đổi tiền; tạo ra những điều kiện sống khắc nghiệt nhằm trợ sức cho sách lược đập phá tan tành hệ ý thức đạo đức cũ và hình thành hệ ý thức đạo đức mới dưới tên: “Chính sách đền ơn đáp nghĩa”. Họ cổ động, khuyến khích và ngầm ép buộc vợ con Tù Sĩ Quan VNCH khinh bỏ chồng, cha, để lấy thương binh cộng sản. Bàn tay sắt với đầy đủ  nanh vuốt búa liềm nhằm hổ trợ cho sách lược rừng rú được thành công là nhà tù mọc nhanh hơn nấm. Trường học, đình làng, miếu mạo đều có thể biến thành trại giam.

          Trong tù, cộng sản dùng chính sách bỏ đói để hèn hóa, biến tù Sĩ Quan thành những kẻ nô hèn không còn nhân phẩm, thấp dưới cả súc vật; nhà kỷ luật nhiều thêm với những kỹ thuật đày đọa ngày càng tinh ác và kinh khiếp.

          Thiện chí và lòng tin tưởng chân thật nơi những con người được giáo dục luôn xiển dương giá trị đích thực con người đã đến cuối đường. Ngay cuối đường này, người tù Sĩ Quan phải công khai thực hiện một cách triệt để đức tính rất quan trọng không có nó là không còn nhân cách. Đức tính đó là: “Lòng Tự Trọng”. Người Sĩ Quan VNCH hiểu được rằng Lòng Tự Trọng là nền tảng của sự suy tư, của sự nhất quyết phải dám chống lại bất cứ hình thức áp bức hay lừa gạt nào. Đó cũng là lý do mà tôi và các chiến hữu của tôi gặp nhau tại Trại Trừng Giới A.20.

          Tôi cùng người bạn đời và sau này là chiến hữu, cùng đóng tiền để đi tù cộng sản tại trường Nguyễn Bá Tòng, cùng bị đưa đến Trại Suối Máu, ít ngày sau bên nữ chuyển trại không rõ về đâu. Kể từ đêm di chuyển ấy mãi đến gần bảy năm sau chúng tôi mới được sum họp, trong hoàn cảnh thể xác và đời sống hai chúng tôi hòa theo nỗi thống hận và cùng chia chịu với quê hương những bươm nát, những khốn cùng, ngút ngàn những phẫn hận, tận đường của mạt vận. Thời gian gần bảy  năm ly biệt này, chúng tôi gặp nhau một lần duy nhất tại trại giam Z30 D, chuyện trò trong sự vội vàng và thúc giục của những cai tù và một lần tôi được đứng nhìn để thấy nàng cùng đứa con gái đầu đời, nhưng không được gặp mặt. Thời gian nầy tôi đang bị kỷ luật, chúng đưa tôi trong văn phòng của chúng, đứng nhìn ra khu thăm nuôi. Nếu tôi chịu viết vào tờ giấy của tên chấp pháp rằng “Tôi sẵn sàng khai báo đồng bọn” thì sẽ được gặp vợ con. Tôi mỉm cười khinh bỉ lòng dạ lang sói  dơ bẩn, đốn mạt đó của cộng sản. Cũng từ buổi hôm ấy tôi thường bị kêu làm việc nhiều hơn cho đến một đêm tôi được tháo cùm chân để mang cùm tay số tám”, cùng với gần 70 chiến hữu được “tuyển chọn” từ khoảng 120 người thuộc thành phần mà theo tên Thượng úy Vọng (Sáu la) trưởng ban giáo dục trại giam Z30 D là “cần qua cuộc giải phẩu” tại “phòng hồi sức” (tức phòng biệt giam tập thể – nguyên nhà 7 nữ tù vừa chuyển trại) để “tái giáo dục cải tạo”, có điều kiện học tập tốt hơn”. Chúng còng hai người thành một cặp. Xe bít bùng chở chúng tôi lăn bánh khoảng lúc 3giờ sáng. Khi những tia nắng cuối cùng tắc hẳn, chúng tôi xuống xe. Nơi chúng tôi “có điều kiện cải tạo tốt hơn” đây rồi !”

          Chúng tôi đứng trước cổng trại giam A.20 trong thung lũng Kỳ Lộ, Huyện Ðồng Xuân, Tỉnh Phú Yên. Nhìn toàn cảnh đồi núi, sông suối, ruộng đồng, tất cả đan kết gắn chặt vào nhau như cái chảo lớn mà bầu trời là cái vung thiên nhiên khóa chặt cuộc đời của những người sa chân mạt lộ. Rồi vòng rào, nhà giam kiên cố, thái độ hung hăng, lời nói chất chứa hận thù độc ác, chúng tôi biết sắp phải đương đầu với bao nghiệt ngã khốc liệt tàn ác nhiều lần hơn các trại trước.

          Tuần sau, một số tù khác từ trại Z.30 C chuyển đến. Họ có cùng tâm cảm như tù đến trước khi nhìn không gian và cảnh vật.

          Vì kẻ thù gạn lọc, nên đến đây hầu hết là “thành phần cứng đầu bất trị” ! Nhờ vậy, tù tự thấy không hổ thẹn mỗi khi nghĩ về tư cách của chính họ, tư cách của những Quân Dân VNCH, đã từng chiến đấu cho lý tưởng Quốc Gia Dân Tộc. Hôm nay dù với tư thế nào, họ vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu vì danh dự giống giòng, vì lý tưởng và vì lẽ phải của lương tâm.

          Tháng sau, tù thuộc phân trại E bị xáo trộn và “biên chế” lại, đại khái như sau :

1/ Nhà 1 gồm các đội như :

  - Ðội Vệ sinh gồm những người tàn tật, đau yếu, già lão.
  - Ðội Văn thể gồm những người có đôi chút hiểu biết về ca hát, viết lách và thể thao. Vì trại có chính sách ưu đãi như phần ăn có nhích hơn, phần quà thăm nuôi được nhiều hơn đôi chút, nên hầu hết là tình nguyện, hoặc do ban thi đua đề nghị và được cai tù đồng ý. Ðội Văn-thể dường như do “nhà văn Phan Lạc Giang Ðông” trong nhóm chủ biên tờ “Mã Thượng” làm đội trưởng.
 - Ðội Y tế có các BS.Trần Quý Nhiếp, Nguyễn Tấn Chức, Nguyễn Văn Lịch... Ðội y tế còn có một số tài phiệt gốc Hoa, được mệnh danh là những ông vua từng gây mưa gió thương trường, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thời VNCH như vua điện ảnh, vua lúa gạo, vua sắt thép. Ðó là các ông Trương Dĩ Nhiên, Lý Sang, Trần Thành, Lưu Trung. Những người nầy được chăm trồng vài loại cây gọi là “dược thảo”.
 - Ðội nhà bếp.
          Những đội này chung nhà nhưng cách vách ngăn với ban thi đua do Dương Đức Mai (nguyên Trung Tá - BĐQ) làm trưởng ban, và toán Trật tự gồm các tên: Quý đen (lai Mỹ đen, nghe nói trước kia là binh sĩ), tên Trực, tên Thanh (hai tên Trực và Thanh đều nguyên là cán bộ cộng sản, không rõ tại sao phải đi tù).

  2/ Nhà 2 là Ðội bị án tử hình và trên 18 năm. Ðội này đa số là các Linh Mục: Vũ Huy Chương, Trần Công Chức, Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Tiến Khẩu, Huỳnh Linh, Lê Văn Hòa, Nguyễn Duy Linh và các Sư huynh giòng Tabert như thầy Ðào, thầy Phượng. Các chiến sĩ trong vụ khởi nghĩa vào những ngày đầu khi Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam tại nhà thờ Vinh-Sơn Saigon như Linh Mục Nguyễn Quang Minh. Và các tổ chức kháng Cộng khác.

 3/ Hai nhà còn lại, thì nhà cuối cùng, là nhà bốn tập trung tù bị bịnh nặng, thường là lao phổi. Nhà ba là tù bị “án tập trung cải tạo”. Gồm Sĩ Quan, Viên chức VNCH, tu sĩ Phật Giáo như thầy Nguyễn Ngọc Đạt thường gọi Thầy Chùa Đạt, và một vị nữa, thế danh Bùi Lưu  không rõ Pháp danh nguyên Tuyên úy Phật giáo. Nghe nói vi tu sĩ nầy rất kiên cường, đã bị bắt lại.

          Sau khi tạm ổn định, chúng tôi phải đem tất cả hành trang (hành trang, ôi nghe vừa văn chương, vừa mai mỉa! Làm gì có cái gọi là hành trang nơi những người ở cuối tầng địa ngục!) lên hội trường. Cai tù gọi một số trong anh em chúng tôi (trong đó có tôi) đứng lên cho cai tù “chiêm ngưỡng”. Các anh em tù đã nhập trại từ trước, ịn bảng khuôn dấu gỗ với mực sơn đen (dường như hắc ín) có khắc chữ “cải tạo” chiều cao chừng 2/3 gang tay và chiều dài gấp rưởi lên quần áo chúng tôi. Những bạn tù này đã bị tuyên án, là tử hình, 20 năm, 18 năm... Họ là những Anh Hùng đã dùng máu lệ, khổ nhục viết tiếp trang bi tráng sử Việt Nam bất khuất. Họ là những Chiến Sĩ Vinh Sơn, Giáo phái Hòa Hảo, những Chiến Sĩ được gọi chung là Phục Quốc. Tôi cúi đầu ngưỡng mộ và cám ơn họ. Nhờ họ mà trang Quốc sử không bị gián đoạn, nhờ họ mà Thế giới ngưỡng phục sức đề kháng của Dân Tộc VN, nhờ họ mà tôi biết rằng tuổi thanh xuân của tôi không phí uổng. Máu và lao tù của họ đã tô đậm cho hai chữ Chính Nghĩa, cho niềm Tin, cho chân lý, cho sức tiến Lực lượng Dân Tộc. May thay, và vui thay chiến hữu của tôi và gia đình tôi đã từng vinh dự được đứng trong Lực Lượng đó.

          Kiểm tra xong, chúng “biên chế” tôi ở đội đào đất.

         Vừa đặt chén khoai mì, những lát khoai mì H.34 chỉ dùng trong kỷ nghệ, không thuộc thực phẩm vì chứa quá nhiều độc tố. Những lát khoai mì khô mỏng dính, mỏng đến độ bạn ném nó vào vách thì bạn cũng khó lấy ra được nguyên vẹn, nếu bạn thích đếm, cam đoan là khoảng độ non “tiểu đội lát khoai mì” thì anh Lại Trình Xuyên, Tiến Sĩ Công Pháp, giáo sư Luật khoa đến than:

  - Hiến ơi, anh bị tụi nó bắt làm đội trưởng, Hiến làm tổ trưởng tổ 1 giúp anh nhé

          Tôi biết anh Xuyên qua anh Khuất Duy Trác. Tôi thấy khó chịu khi nghe lời than và đề nghị của anh:

  - Sao anh không từ chối. Tôi thật không hiểu nổi! Tôi không làm, không giúp gì cả !

          Hình như cái cằm bên dưới của anh trề ra. Thoáng như nét vừa đau, vừa buồn anh tiếp:

 - Anh đã có nghĩ đến, nhưng nếu không nhận thì chúng có cớ để nhốt kỷ luật. Vả lại, mình không làm thì nếu thằng mất dạy  nào đó sẽ làm và khổ thêm anh em. Anh nghỉ mình cứ nhận, anh em thoải mái được ngày nào tốt ngày ấy. Mình làm cũng chỉ bảo vệ lẫn cho nhau thôi.

          Không đợi tôi nói, anh bảo:

 - Chiều nay, anh phải ở lại để họp “giao ban”, Hiến dẫn đội đi lao động nhé!

          Anh đi rồi, tôi phân vân. Lúc ấy, tôi thật vụng về. Phản ứng chậm chạp và cuối cùng thì tôi cũng phải cùng anh em ra khu đào đất có tên “ao cá bác Hồ”. Hôm ấy, gọi là tạo “khí thế”, bọn cán bộ cho hát văn nghệ, phất cờ đánh trống náo nhiệt. Trong số bọn chủ ngục có tên Lê Đồng Vũ (hỗn danh Lê văn Nhừ) y gốc người thiểu số, dáng gầy hơi cao, da mặt tái chì, môi thâm đen. Tôi thấy hắn đi qua, đi lại hai lần và tôi tảng lờ như không thấy. Hắn hỏi ai là đội trưởng, anh em chỉ vào tôi. Hắn hỏi, tôi trả lời nhát gừng rằng tôi chỉ là tổ trưởng, đội trưởng ở nhà. Vì tôi vờ không thấy hắn nên không chào...Và thế là: Tôi được “cách chức” và biên chế sang đội mộc của anh Huỳnh Cự.

          Qua sách báo, thông tin tài liệu và công việc, tôi biết có bốn nhân vật cùng có tên Huỳnh Cự. Đó là: Huỳnh Cự Trung đội trưởng trung đội Du kích đã đi vào lịch sử bằng cuộc nổi dậy đánh thực dân Pháp ở Ba Tơ, Quảng Ngãi. Huỳnh Cự, tên công an hỏi cung tại trại giam Hỏa Lò, trong quyển hồi ký “Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên. Huỳnh Cự tên đội trưởng đội cải cách trong tác phẩm “Ba Người Khác” của nhà văn Tô Hoài và Trung Tá Chiêu Hồi Huỳnh Cự, tù nhân đội trưởng đội mộc, kiêm nhà trưởng nhà 3 là một hay không ? Nhưng theo chủ quan của tôi thì hai nhân vật cùng có tên Huỳnh Cự trong các tác phẩm của Vũ Thư Hiên và Tô Hoài không phải là Huỳnh Cự A.20 mà chúng tôi sắp kể sau đây.

          Theo tôi biết, cùng với vài chi tiết do anh Huỳnh Cự kể lại thì Anh Huỳnh Cự nguyên là Trung đội trưởng du kích Quận Ba Tơ Tỉnh Quảng Ngãi, cấp bậc khi anh ra hồi chánh với Quốc Gia tại Quận Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi là Trung Tá Trưởng Phòng Quân Huấn Liên Khu 5. Anh được Bộ Chiêu hồi cử làm Phụ tá Thứ Trưởng và là Ủy viên công cán. Anh thường xuyên đi thuyết trình về kinh nghiệm cộng sản.

          Sau này, tôi có nghe các bạn tù, những người có tư cách, đáng tin cậy cho hay rằng cộng sản ngụy tạo ra tai nạn giao thông để giết chết anh. Tóm tắc câu chuyện như sau:

          Một buổi trưa, tại ngả tư Hàng xanh, khi đèn giao thông báo đỏ. Anh Huỳnh Cự đang cởi xe honda, chờ đèn giao thông, xe anh ngừng sát bờ lề đường thì một chiếc xe jeep nhà binh mang dấu hiệu Quân y Cộng sản cũng đứng chờ sẳn phía đối diện bỗng nhiên lao nhanh nhắm thẳng vào anh. Anh Huỳnh Cự ngã xuống nằm sóng soài trên mặt đường và chiếc xe Quân y Việt cộng cán lên trên người anh rồi bình thản bỏ nạn nhân lại hiện trường và cũng bình thản chạy đi như chưa tùng có chuyện gì vừa mới xảy ra trước mắt những công an giao thông trật tự và sự ngỡ ngàng của dân chúng.

          Cộng sản xem mạng người như cỏ rác.Thời chiến tranh, xã hội chúng cai trị còn trong bức màng sắt, CS ngang nhiên thủ tiêu tuy không công khai nhưng cũng không cần dấu giếm. Nhưng khi thế giới CS xụp đổ, vì cần tồn tại, chúng bắt buộc phải mở cửa, phải thay đổi phương pháp giết người, Quá nhiều vụ án sát nhân được ngụy tạo dưới những hình thái như:ẩu đả, ghen tương, trấn lột, xã hội đen, nhưng phổ thông nhất là tai nạn giao thông mà nạn nhân chết oan ức, thủ phạm bình thường nhỡn nhơ thách đố pháp luật. Đảng cộng sản không thể nào chối cải tội trạng thủ tiêu ngay đồng chí của chúng như Trung tướng CS Nguyễn Bình, Dân biểu CS Dương Bạch Mai, Nông thị Xuân cán bộ hộ lý và đã có con với Hồ chí Minh, Ủy viên Bộ Chính trị CS Nguyễn Đình Tứ, Đại sứ CS tại Liên Hiệp Quốc Đinh Bá Thi; những người chúng lo sợ nguy hại cho chúng như nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Giư, Kịch tác gia Lưu quang Vũ, Thượng tọa Thích Thiện Minh... Do đó, việc cộng sản hèn hạ giết anh Huỳnh Cự để trả thù cũng không có gì làm lạ!

          Tôi không nhớ các anh Nguyễn Văn Học nguyên Đại úy Biệt Dộng Quân, cán bộ Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân tại Huấn Khu Dục Mỹ và Anh Đại Úy Phan Văn Mùi nhà ở chợ La Hay và tôi quen biết nhau trong trường hợp nào. Tôi chỉ nhớ sau thời gian ngắn ăn “cơm” chung, anh Mùi bị biên chế chỉ còn tôi và anh Học Anh Học có biệt danh là: “Bắc kỳ đểu” vì mỗi khi phải phát biểu, anh không quên châm chọc chính sách của cộng sản; bọn cán bộ có nghe, có biết, có hiểu nhưng chịu thua, không bắt lỗi được. Anh Học chơi với anh em hòa nhã. Nhắc đến anh là bạn bè nhớ ra anh Học đầu 3 phân (1 phân thì đúng hơn). Vì khéo tay, anh làm đồ thủ công như ống vố hút thuốc, dao, kéo, kiêm luôn thợ sửa chìa khóa. Tôi nhớ anh có gò một bộ đồ nấu theo kiểu réchaud tim bằng vải và nấu bằng dầu lửa. Anh em chúng tôi nghèo lắm, tôi thường đặc trách nấu mướn cho những anh em có thăm nuôi nhưng “nhát gan”.

          Sở dĩ chúng tôi có dầu lửa để nấu là vì lúc ấy anh Nguyễn Tú Cường nhờ có tài vẽ, bọn cán bộ nhờ anh vẽ những hoa, cảnh, độc bình... trên các vách như hội trường, nhà ở, nhà ăn... Nguyễn Tú Cường kéo thêm anh Nguyễn Văn Học và tôi. Tôi không biết vẽ, Cường bảo tôi đồ và sơn lại những hình Cường đã vẽ và đã pha màu. Thường số dầu chúng cung cấp nhiều hơn nhu cầu. Phần thặng dư ấy chính là vật liệu cho cái réchaud hoạt động. Cũng nhờ vậy mà số khoai mì có tăng thêm dăm ba lát.

           Khi mới đến trại A-20, một hôm lên cơn sốt, người tôi cứ run bần bật. Anh Học bèn đè tôi xuống, lấy “mền” phủ kín rồi ủ lên người tôi bằng hơi ấm từ anh chuyền sang. Câu chuyện tôi có mặt trong đội quân bệnh nhân sốt rét kinh niên như thế này:

          Mãn khóa Sĩ Quan tại Học viện CSQG, tôi được giữ lại phục vụ tại Bộ Tư Lệnh CSQG Sài Gòn, nhưng thuở ấy tôi quá trẻ, lại có “máu giang hồ vặt” nên tôi làm đơn xin đổi ra khỏi Sài Gòn. Đơn xin thuyên chuyển tôi ghi rằng “Tình nguyện phục vụ bất cứ nơi nào trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”. Đơn đệ trình khá lâu, nhưng không hồi báo. Một hôm, có nữ Sĩ Quan phụ trách thuyên chuyển khối Nhân huấn có công việc trực tiếp với tôi. Nhân tiện tôi hỏi về đơn xin thuyên chuyển và được cô trả lời phải đợi có người điền thế. Mấy ngày sau, cô cho hay có người muốn hoán chuyển, tôi đồng ý. Nhưng khi đến nơi, thì nhiệm sở hoán chuyển như trong Nghị Định đã có người. Tôi đồng ý phục vụ tại vùng thượng du cao nguyên, không khiếu nại. Trước khi chia tay, người nữ Sĩ Quan này ngạc nhiên hỏi vì sao tôi thích về nơi xa, trong khi nhiều ngưới đang tìm cách về BTL để được bình an và dễ thăng tiến. Cô dặn tôi, nếu đến đơn vị mới gặp khó khăn không như ý, cứ tin về và cô có thể giúp tôi trở lại Sài Gòn. Tôi cám ơn và trả lời rằng: “Tôi không bao giờ ân hận quyết định của mình”. Đến nhiệm sở mới, tôi viết thư cám ơn và cho cô biết những khó khăn, nguy hiểm đang chờ chào đón tôi. Những lá thư qua lại đó giúp chúng tôi hiểu nhau, yêu kính nhau và trở thành bạn đời của nhau. Thưa các bạn, đó chính là nguyên nhân khiến tôi có tên trong đội quân sốt rét.

    Một buổi trưa, đang nhâm nhi những lát khoai mì thì anh Học bảo:

   - Chút nữa anh Cự sẽ nói chuyện với ông đấy.

  Tôi hỏi:

   - Anh có biết chuyện gì không? Anh Cự nói gì với anh ?

    Anh Học bảo không nói được bây giờ, để sau khi anh Cự nói chuyện vói ông xong, mình xem thử có giống nhau không.

         Quả nhiên, không lâu sau đó – vẫn thói quen ưa khịt khịt ở mũi, anh Cự vào ngay vấn đề. Đại ý với tư cách người vừa lớn tuổi hơn, vừa có nhiều kinh nghiệm về cộng sản hơn, anh khuyên tôi cẩn thận, đừng để thái độ chống đối lộ liễu quá, không có lợi. Anh kết luận rằng: Đất nước cần người trẻ, nên ráng nhịn, ra khỏi trại giam rồi muốn làm gì thì làm. Trong tù mà chết thì lãng nhách; còn nếu không còn phương cách để tồn tại thì phải lựa cách chết vừa xứng đáng với danh dự, vừa không bị thua lỗ. Rất nhanh gọn, anh dứt khoát chấm dứt câu chuyện và tôi cũng chưa kịp có phản ứng gì. Anh đi thật nhanh. Anh Học cho biết rằng Anh Huỳnh Cự cũng nói như thế đối với anh.
          Mấy hôm sau tôi “biên chế” qua đội cuốc đất do anh Nguyễn Trọng Nghị làm đội trưởng. Anh Nghị nguyên là Thiếu Tá, người ốm, cao; khuôn mặt rất giống dân Âu châu, chúng tôi thường gọi anh là ông tây nhà đèn. Anh có cách nói chậm, rõ và dứt khoát, được anh em kính trọng. Khi ra khỏi tù, gia đình tôi có đến thăm anh Khuất Duy Trác và anh Nguyễn Trọng Nghị; hai chiến hữu đàn anh mà tôi kính trọng cả về nhân cách lẫn kiến thức.

         Một buổi chiều, tất cả anh em ra khu lao động cuốc đất. Riêng anh Cái Trọng Ty phải ở lại làm việc với tên Quyền quản giáo đội. Tất cả anh em lo ngại vì nghe nói anh Ty và một anh nữa (không nhớ tên), Hai anh gánh lúa giống. Vì cái thúng bị đứt vành mà lúa thì đong cao có ngọn và phải gánh chạy, do đó lúa rơi vãi ra ngoài một ít. Sự lo ngại đã có hồi ứng. Chúng tôi nghe tiếng la phản đối của anh Cái Trọng Ty, tôi chạy vội về phía anh Ty. Khi anh Ty ra đến nơi với chúng tôi, anh em chúng tôi không ai bảo ai tất cả  ngầm đồng ý không lao động. Quyền giận lắm, y ra lệnh là cứ hai người một cặp, người đứng cuốc cỏ, người ngồi gom cỏ thành từng đống; nhưng chẳng có ai động tịnh gì. Quyền bèn giở trò hù dọa rằng là hắn gọi tên ai thì người đó phải cuốc đất lao động. Tôi bị hắn gọi tên trước. Tôi trả lời dứt khoát là không làm, nại cớ anh em tù chúng tôi bị đánh. Chúng tôi không an tâm cải tạo và việc cán bộ đánh tù là vi phạm chính sách. Sau một hồi kèn cựa, Quyền dẫn đội về lại trại giam.

         Sáng hôm sau, chúng tôi không nhận phần ăn sáng. Lý lé, tên cán bộ an ninh cùng một số tên khác vào, nhưng anh em tù nhất quyết không nhận phần ăn, không xuất trại. Tôi và bốn anh em bị gọi đi làm việc. Đầu tiên tên trật tự Quý đen đưa tôi ngồi chờ ở nhà “Văn Hóa”, sau lại đưa vào chờ ở khu kỷ luật và cuối cùng là tại nhà tên cán bộ Chi. Trong số những tên cai ngục thì Chi rất thâm hiểm, nhưng nhờ có học hơn, nên hắn che đậy được bộ mặt gian ác. Khi vào trong nhà Chi, tôi thấy một số các tên hung ác đã có mặt. Riêng Quyền, trong tay cầm sẵn thanh cây cỡ loại thước của thợ hồ. Tôi đoán chúng sẽ đánh, tôi hét toáng lên: “Cán bộ không được đánh tôi, tôi sẽ tự sát”. Mắt tôi lục tìm bất cứ vật gì làm vũ khí hộ thân. Tôi đoán, Chi thấy không thuận lợi và có thể gây phiền toái nên Chi đuổi bọn Quyền ra và “ôn tồn giải thích”, hắn giả lả hỏi về anh em tù, về hoàn cảnh gia đình tôi. Tôi ngỏ lời cám ơn về cá nhân và gia đình của tôi, còn sinh hoạt anh em thì tôi trả lời không biết.

         Rồi tình hình cũng theo thời gian lắng đi, trôi vào quá khứ. Rồi một số rất đông anh em được thả về. Tôi được anh Lê Văn Sanh, Thiếu Tá Pháo Binh Phòng Không cũng gốc Huế như tôi gọi ăn cơm chung. Anh Sanh có tật nói to và nhanh. Bởi sự chênh lệch quá xa, Anh được thân nhân có lẽ khá giả, còn tôi nghèo. Anh biết tôi ngại nên không ép, nhưng anh thường chia thức ăn cho tôi, anh thay cho tôi bàn chải đánh răng mà tôi mang theo từ lúc “giả nhà, đeo kiếp lao tù”, cũng đã non 7 bảy năm trời. Lần đầu tiên trong đời tù, tôi được dánh răng bằng kem đánh răng, được tắm xà phòng thơm. Tôi biết, trong hoàn cảnh tù đày, khốn khó như thế mà anh chia cho tôi những thứ đối với tôi là quá xa xỉ, và anh cũng chẳng dư thừa. Chia sớt nhau trong cảnh ngộ nầy là cả một tấm lòng, là một sự hy sinh và yêu thương. Tôi không đủ văn tài để tả lại cái cảm giác khoan khoái đó. Và tôi biết, chỉ nên một lần. Một lần từ của  người đàn anh, rồi thôi. Tôi trở về thân phận và suy tư riêng. Tôi thuộc loại con bà phước, có được một lon goz cũng đủ rồi. Bây giờ anh em thương tình cho quá nhiều. Trong tù, lon Guigoz quý, quý lắm, nhưng có cũng chẳng biết để làm gì. Tôi không trông chờ ngày về. Gần nửa năm sau, tôi nhận được thư của anh Học. Tôi cố tìm ẩn ngữ trong thư, nhưng nội dung không có gì như mong chờ. Tôi lại vẩn vơ nhìn mây và thời gian trôi, trôi mãi... Tôi biết chắc vợ con tôi không thể thăm nuôi, đời sống những người thân yêu này vất vả, khổ nhục trăm chiều.

         Nhưng thật bất ngờ, một buổi sáng gần ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1982, Võ Thành Mân, Phan Vỹ Huệ (Kathy Huệ) và tôi được thả. Khi nhận giấy ra trại thì được biết có thêm một vị nữa ở phân trại B, dường như là Trung Tá Tâm, BTL/CSQG. Trên đường trở về với gia đình, ba anh em chúng tôi được anh Nguyễn Văn Mùi ra đón. Anh chị nghèo lắm, hình như có được hai cháu lúc bấy giờ cũng khoảng 5 hay 6 tuổi. Chị bán mắm muối tiêu hành ở chợ. Tôi thấy anh gánh hàng về trước, chị về sau. Anh nấu cơm, chị làm đồ ăn. Ôi bữa cơm thấm sâu tình chiến hữu.

         Chừng hai năm sau, tôi bị lao phổi nặng, phải lên Sài gòn tìm phương chữa trị. Tôi gặp anh Nguyễn Bá Tước. Trong tù, tuy chúng tôi không ăn cơm chung, nhưng anh xem tôi như đứa em. Anh hỏi tôi đã lập hồ sơ đi Mỹ chưa? Thấy tôi ngơ ngác, anh lấy giấy ra trại và các giấy tờ khác làm copy và gởi qua Bangkok (Thái Lan). Gặp anh lần thứ hai, anh đưa cho tôi giấy báo nhận của Tòa Đại sứ Mỹ ở Thái Lan. Sau nầy, tôi hay tin trễ anh đã mãn phần. Tôi bùi ngùi gởi về gia đình anh nén nhang ân nghĩa. Tôi cầu xin cho anh được trở về cõi Thiên Quốc. Xin Đấng tối cao ban hồng phúc cho anh, một con người đầy lòng nhân ái. Cũng thời gian nầy, anh Lê Văn Sanh gởi về cho tôi 50 dollars Mỹ. Thực tế, giữa lúc khốn cùng thì số tiền nầy quá lớn. Xin cám ơn tấm lòng của anh.

         Những điều tôi viết về anh Huỳnh Cự, có thể làm một số anh em không hài lòng. Tôi không dám phê bình đúng hay sai. Tôi chỉ xin những chiến hữu ấy vui lòng cho phép tôi được nói những gì dù rất hạn chế, kém cỏi. Nhưng với tôi, riêng tôi, tôi đoan quyết là sự thật, và sự thật cần phải được nói ra. Lần cuối, xin hãy lượng thứ cho tôi.

         Tôi còn nợ anh Huỳnh Cự một nén nhang “tử biệt”. Tôi còn thiếu anh Mùi một tấm lòng của đứa em đối với người anh.

         Bây giờ, tuy đã quá lâu, trí nhớ cùn theo thời gian, nhưng ân tình chiến hữu vẫn mặn nồng.

         Xin cám ơn đời, xin cám ơn cảnh ngộ tuy tủi nhục khốn cùng; nhưng chính nơi cảnh ngộ tủi nhục khốn cùng ấy, hoa nhân ái ngát đầy hương sắc nở rộ. Và nhờ đó, tôi đã được hiểu, được biết và cũng đã nhận được tình người, tình đời, và nhất là tình chiến hữu. Nhờ thế, đầu tôi ngẩn cao nhìn về tương lai, về niềm tin rằng sẽ có một ngày mai. Ngày đó, ánh sáng sẽ  rạng rỡ trên quê hương. Chỉ nghĩ đến đó mà lòng tôi đã rộn ràng.

         Cùng với thế hệ kế tiếp, tôi vẫn bước tới, bước mạnh mẽ, không ngại ngùng chông gai. Tôi đã là và mãi là Chiến sĩ của Chính Nghĩa Quốc Gia Tự Do và Nhân ái.

         Rồi mai đây ra đi lìa bỏ cuộc sống này, tôi sẽ đem theo nụ cười và niềm hãnh diện hôm nay của tôi.

         Xin cám ơn đời, cám ơn bè bạn chiến hữu, cám ơn những người thân quyến cả cuộc đời đã vì tôi, cho tôi dự phần và chung phần.

                                                          Tống Phước Hiến
                                      Viết nhân ngày Gia đình A.20 Hội Ngộ 3/7/2011




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét