A20 Nguyễn Chí Thiệp     Sau hiệp định Paris 26 tháng 1, 1973, Hoa Kỳ hạn chế viện trợ cho Việt Nam Cộng   Hoà. Sự sụp đỗ của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Tôi thường cọng tác   ở các quân khu và các tỉnh nên thấy rõ điều này. Các cấp chỉ huy quân sự cao   cấp thấy mình bị bó tay trong khi quân chính quy của Cộng Sản Bắc Việt xâm   nhập ào ạt qua đường Trường Sơn. Nhưng không ngờ được sự sụp đổ của miền Nam   quá nhanh sau khi thất thủ Ban Mê Thuột và quyết định rút quân đoàn 2 ra khỏi   Pleiku.    
Quảng Trị, Huế di tản, Quảng Ngãi, Quảng Tín bỏ ngõ theo... Chuyến công tác   thường xuyên về vùng I chiến thuật vào ngày 25 thảng 3, 1975 xem ra không còn   cần thiết. Chúng tôi đoán rằng dù còn trong tay một lực lượng quân sự đông   đủ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cũng khó giữ nổi thành phố Ðà Nẵng, nhất là   khi hỗn loạn bùng nổ. Nhưng dù sao tôi vẫn muốn về với Ðà Nẵng trong những   ngày bấp bênh, sôi động này. Tôi không muốn sự tiên đoán của tôi sẽ trở thành   sự thật. Bao nỗi xót xa khi nghĩ rằng thành phố Ðà Nẵng thân thương của tôi   sẽ lọt vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt. Tôi không dám nghĩ tiếp rằng một khi   bị mất cả Cao nguyên và vùng I chiến thuật thì cả miền Nam Việt Nam cũng sẽ   đổ theo. Không một tướng lãnh nào có thể giữ được một phần đất nào đó cho   Việt Nam Cộng Hoà một khi Cao nguyên và Vùng I lọt vào tay Cộng quân.     Chuyến bay về Ðà Nẵng chiều 25 tháng 3,1975 thật buồn, hơn một nửa số ghế của   chiếc DC 6B bị bỏ trống. Lòng tàu yên lặng, lạnh lẽo. Ai nấy đăm chiêu, thất   thần, tuyệt vọng. Cả các cô tiếp viên hàng không xinh đẹp cũng không nhếch được   nụ cười gượng nhẹ cho nghề nghiệp.     Tôi quyết định chỉ ở lại Ðà Nẵng một hay hai ngày mà thôi. Không chừng chuyến   về sẽ rất gay. Tôi nghĩ đến việc phải tìm cách liên lạc với bạn bè ở Hải khu   để nếu trường hợp đường hàng không bế tắc thì phải nhờ phương tiện của Hải   quân.     Hành khách của chuyến trở về Sài Gòn tràn ra bãi đậu của phi cơ để chờ lên   tàu. Không ai còn kiên nhẫn ngồi trong nhà khách. Không có tiếng nói ồn ào   náo nhiệt như thường lệ. Bầu không khí yên lặng nặng nề của sự lo âu và sợ   hãi hoà trong không gian ảm đạm của buổi hoàng hôn. Ða số hành khách là thân   nhân và gia đình của các sĩ quan cao cấp ở Bộ Tư lệnh quân đoàn I và viên   chức các cơ quan ở thành phố. Ðại tá Phạm Cao Ðông, vị chỉ huy cũ, nói với   tôi: “Mọi người đều tính chuyện đi vào, cậu lại đi ra, liệu công việc mà vào   cho sớm”. Cám ơn lời nhắc của Ðại tá Phạm Cao Ðông, chào gia đình ông và gia   đình của những người quen biết khác, tôi vào ngay phòng giấy của Chi cuộc   Hàng không Ðà Nẵng ghi vé trở về. Chi cuộc Hàng không Việt Nam tại Ðà Nẵng đã   bán vé cho các chuyến đi Sài Gòn vào tháng 6, 1975. Nhờ là hành khách thường   xuyên Sài Gòn- Ðà Nẵng và là đi công tác nên tôi được ghi vào danh sách   chuyến đi sớm nhất cho tôi chiều ngày 27 tháng 3,1975.     Thành phố Ðà Nẵng tràn ngập những người và người. Ðông hơn mùa Hè năm 1972   bội phần. Năm 1972 chỉ có dân di tản từ Quảng Trị và Huế chạy vào Ðà Nẵng,   lần này cả dân Huế, Thừa Thiên, Quảng Nam , Quảng Tín, Quảng Ngãi và các đơn   vị quân đội tan hàng.     Lần trước, khi chạy được đến Ðà Nẵng, người ta an tâm chờ ngày trở về quê cũ.   Lần này người ta nghĩ một chuyến đi xa hơn vào miền Nam . Di tản vào Nam hay   ở lại, di tản bằng cách nào, đó là câu hỏi của nhiều người.     Có người nói đến một giải pháp chính trị như là quân đội VNCH sẽ giữ Ðà Nẵng   một thời gian ít ra là 6 tháng để nếu ai muốn có thể có thì giờ di cư. Ða số   dân chúng Ðà Nẵng thì rất hoang mang, gần như tuyệt vọng. Hàng triệu người   chỉ biết chạy quanh không chủ đích như đàn kiến bò trên miệng cái chảo, mỗi   lúc một nóng hơn.     Nhiều người quen biết hỏi tôi là họ nên đi hay ở lại và đi bằng cách nào. Tôi   nghĩ tình thế đã quá cấp bách nên chỉ biết khuyên họ nếu tính đi thì phải đi   càng sớm càng tốt và nên tìm phương tiện bằng đường thủy. Ðường hàng không sẽ   chẳng kịp di tản trước khi Ðà Nẵng sụp đỗ, và đường hàng không rất dễ bị tê   liệt khi có tình trạng hỗn loạn.     Gia đình Ba Mẹ và các em tôi đã được đi theo chuyến vận chuyển của hàng không   quân sự chiều ngày 26 tháng 3,1975. Tôi có phần an tâm.     Các cơ quan chính quyền và quân đội VNCH hầu như không còn làm việc. Các văn   phòng vẫn mở cửa, công chức,quân nhân vẫn đến nhiệm sở như chỉ để tiếp nhận   và ghi tên những nhân viên ở các tỉnh khác chạy về. Vấn đề chính cho mọi   người là làm sao tìm phương tiện để di tản vào Sài Gòn.     Dân Ðà Nẵng cũng tràn ra đường phố. Không ai còn an tâm ở lại trong nhà. Hầu   như không ai còn tự tin, bình tĩnh và sáng suốt để tự mình giải quyết công   việc của chính bản thân và gia đình mình. Người ta tìm đến nhau để tìm một   lời khuyên hay sự an ủi của những người đồng cảnh. Hoang mang, lo sợ và hầu   như tuyệt vọng. Các sĩ quan quân đội và Cảnh sát cũng tràn ra đường. Các xe   Jeep trang bị máy truyền tin, cần câu, binh sĩ áo giáp, mũ sắt, súng đạn đầy   đủ chen chúc với dân chúng ,chạy khắp các đường trong thành phố như là đang   thi hành nhiệm vụ gìn giữ an ninh trật tự, nhưng thực tế họ cũng không làm gì   cả. Chạy tới chạy lui để có cảm giác an tâm hơn là phải án binh bất động tại   chỗ.     Tình trạng ổn định mong manh, tạm thời và rất biểu kiến. Nỗi lo sợ đè nặng   lên mọi người. Cả kẻ xấu cũng không dám có hành động cướp bóc. Tình trạng này   sẽ kéo dài cho đến khi nào có một sự bùng nổ nào đó nó sẽ trở thành hỗn loạn   và lúc đó thì không còn ai có thể kiểm soát và ngăn chận được.     May mắn là các đơn vị tác chiến của quân đoàn đang dần co cụm lại và họ còn   giữ được vòng đai từ đèo Hải Vân đến Ðại Lộc, Ðức Dục, Duy Xuyên đến Hội An   ra biển. Các đơn vị chính quy của Bắc Việt còn xa, chưa bắt kịp đà rút quân   nhanh chóng của quân đội Việt Nam Cộng Hoà.     Nếu lúc này Việt Cộng pháo kích ,hoặc tấn công bằng đặc công thì sự bùng nổ   sẽ xảy ra và tai hại sẽ không tính được. May mắn là các diễn biến xảy ra quá   nhanh , không những quân dân miền Nam thảng thốt mà các cấp chỉ huy của Cộng   Sản Bắc Việt cũng bất ngờ.     Tôi có hơn một ngày để đi loanh quanh khắp nơi trong thành phố. Ði để nhìn   lại lần cuối cùng nơi tôi đã sống, đã lớn lên và đã từng đi qua. Ði để nhìn   thấy những gì đang diễn ra mà tôi nghĩ sẽ không bao giờ có dịp tái diễn.     Ở đâu cũng chỉ thấy người và người nhưng tôi thấy thật hoang vắng và cô đơn.     Tôi rời thành phố ra đi rất sớm, nhưng hay trở về nên thành phố vẫn rất thân   quen dù hơn mười năm chiến tranh nó thay đổi thật nhiều.     Bạn bè quen cũ không còn lại bao nhiêu.     Thuở nhỏ, chúng tôi thường ra các bãi biển để nằm ngắm sao trời ban đêm, hoặc   đến sân ga để nghe tiếng còi của những chuyến tàu suốt và mơ ước những chuyến   đi xa... Nhưng đại dương và giòng tàu đã không mang chúng tôi những chuyến đi   mong ước. Thực tế chiến tranh đã tung chúng tôi đến những nơi không lựa chọn,   ở khắp các vùng chiến thuật.     Nhìn những giòng người chen chúc xuôi ngược trên các đường phố, nhìn những   ghe thuyền tất tả chuẩn bị cho những chuyến di cư, không biết chỉ đến ngày   mai thành phố sẽ ra sao. Cá nhân tôi ra sao trong ngày mai ,tôi cũng không   biết được. Ðà Nẵng sụp đổ là điều chắc chắn. Ðó là sự thật. Không muốn tin   cũng không được. Nhớ đến nhóm từ “di tản chiến thuật” mà đau thắt cả ruột gan   !     Bao nhiêu kỷ niệm thời niên thiếu còn rõ ràng mồn một. Những con đường Hùng   Vương, Ðông Kinh Nghĩa Thục, Pasteur, Thống Nhất, Phan Chu Trinh, Lê Lợi quen   thuộc, ngày hai buổi đưa đón bước chân chim... Chỉ mới ngày nào đây thôi, gần   lắm nhưng sắp phải muôn trùng xa cách. Làm sao có ngày trở lại ?     Những hàng phượng già hai bên đường dường như ủ rũ tiễn chân tôi. Nhớ ngày   nào bị thầy Ngọc xách tai vì vô ý đứng chạm vào mấy cây phượng con mới trồng   ở sân trường. Giờ đây bóng những cây phượng tơ sum suê đang vươn ra che mát   cho những gia đình tị nạn chiến tranh. Trường Phan Chu Trinh đang là nơi cư   trú tạm thời của những người chạy giặc. Họ che lều ở tràn ra cả sân trường.     Chào Ðà Nẵng của tuổi học trò... Chào trường Phan Chu Trinh, thầy xưa bạn   cũ... Chào bóng dáng thân thương trên con đường đi học... Chào quê hương nơi   sinh trưởng... Chào kỷ niệm ... Tôi ra đi lòng đau như muối xát.     Chiếc xe Bus của Chi cuộc Hàng không bị chận lại ở trạm gác của Không quân ở   đầu Cư xá Sĩ Quan Thanh Lịch. Mọi người phải đi bộ vào trạm đợi chờ. Qua trạm   gác, mỗi hành khách phải đóng cho mỗi người lính gác 500 đồng. Tình thế mỗi ngày   mỗi thay đổi, không còn trật tự, không còn chỉ huy thì ai có súng người đó có   quyền, kể cả quyền sách nhiễu người khác.     Tôi đi chuyến tàu đầu tiên trong ngày 27 tháng 3, 1975, nhưng nhà đợi của phi   trường dân sự đầy cả người. Mặt mày ai nấy đều nặng như chì, bạn bè, người   quen không ai còn buồn đáp lại lời chào hỏi.     Cả ngàn người đều muốn được lên chiếc DC 4 đang đứng đợi trên khu hành khách   lên xuống.     Chuyến bay dành riêng chuyên chở gia đình và nhân viên các Chi cuộc Hàng   không vùng I chiến thuật. Phi cơ chỉ còn 40 chỗ cho hành khách. Ðám đông ai   cũng muốn được lên phi cơ, nên không ai lên được. Các giấy lên tàu trở thành   vô giá trị, vì cả ngàn người đều có thẻ lên tàu cùng màu tím giống nhau.     Ai được đi và ai phải ở lại chờ chuyến khác, không ai giải quyết được, kể cả   phó Tổng Giám Ðốc Hàng không Việt Nam mới được tăng cường ra Ðà Nẵng buổi   trưa hôm đó.     Người mỗi lúc mỗi đông hơn. Bất ngờ, một Ðại tá cầm khẩu tiểu liên bắn một   tràng chỉ thiên, đám đông giạt ra, hắn ta đã dẫn thân nhân, gia đình 24 người   lên phi cơ.     Một đại tá khác, chửi thề một tiếng, rồi cũng bắn một tràng tiểu liên lên nóc   phòng đợi rồi dẫn thân nhân gia đình 17 người lên phi cơ.     Tôi biết hai đại tá này. Một người là Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Hòa   Cầm, người thứ hai là Chỉ huy trưởng Trung tâm 1 tuyển mộ nhập ngũ.     Giờ phút ấy, ai có lính, có súng thì có quyền. Sự ồn định tạm thời đã bị phá   vỡ. Chiếc DC 6 mới chạy vào bãi đậu đã bị đám đông tràn ngập.     Nhân viên phi hành không mở cửa phi cơ. Nhiều người đã đẩy các thang ra và   leo lên đứng, ngồi đầy hai bên cánh.     Ðám đông đã quyết định mọi người đều được đi, hoặc không ai được đi !     Nếu tất cả phi cơ của Hàng Không VN đều đến phi trường cũng không có thể   chuyên chở hết hành khách .     Khu vực Hàng không dân sự hoàn toàn bị tê liệt. Hai khu vực Hàng không quân   sự và đưa người tị nạn theo chương trình khẩn hoang lập ấp còn tiếp tục hoạt   động.     Thành phố Ðà Nẵng còn yên tĩnh nhưng tôi vẫn có cảm giác lạnh lẽo và bất an.   Cầu Trời đừng có biến cố gì xảy ra. Sự yên tĩnh chỉ là một màng mỏng tạm thời   che cho tình trạng sôi sục sẵn sàng bùng nổ.     Mặt trời dần dần xuống thấp, gió chiều thổi mạnh, ở trong đám đông mà cảm   thấy lạnh. Có lẽ tại vì buồn, lo và sợ.     Ðám đông đã tràn ngập đường băng phụ dùng cho phi cơ di chuyển ra phi đạo.     Khu phi cơ quân sự và khu đưa người tị nạn khẩn hoang lập ấp cũng đã bị tràn   ngập.     Các phi cơ World Airway chở người tị nạn khẩn hoang lập ấp bay vòng xuống   thấp quanh phi trường rồi quay trở về Nam. Có chiếc đáp xuống phi đạo rồi cất   cánh trở lại. Mọi người không biết làm gì hơn là là chen chúc phóng ra phi   đạo và chờ đợi.     Tôi muốn quay sang Hải khu như dự tính mà không có phương tiện để đi. Cho dù   có xe chưa chắc đã đi được với giòng người đông đúc đang kéo vào phi trường.     Tôi nghĩ lúc đó nếu Việt Cộng pháo kích vào chắc máu sẽ chảy thành sông và   đám đông sẽ đạp nhau mà chết.     Tình hình thay đổi nhanh chóng. Sự sụp đổ của thành phố đến nhanh hơn dự   đoán.     Một chiếc World Airway đáp xuống phi đạo hướng tây của phi trường. Phi công   không cất cánh trở lên như những chiếc trước. Phi cơ đang di chuyển chậm vào   đường băng thứ hai.     Không kịp xách cái valise nhỏ để bên chân, tôi vội chạy băng qua phi trường   về hướng phi cơ.     Một số người chạy theo tôi.     Khi chúng tôi chạy đến gần phi cơ thì cửa phi cơ mở đón chúng tôi.     Thật may mắn, phi hành đoàn muốn đón người chạy nạn mà không dám cho phi cơ   vào bãi đậu. Ðám đông chạy ào ra, phi công cho phi cơ chạy tránh đám đông và   dừng lại chỗ nào có ít người, đón đầy cho một chuyến bay.     Nhìn lại thành phố đã có vài đám cháy nhỏ và những tiếng nổ nổi lên đây đó.   Tôi e rằng thành phố không đứng vững trong vài ngày nữa. Cổ họng khô cứng,   bụng nóng như cồn và nước mắt tôi tuôn trào...     Ngày 28 tháng 3, 1975 đại diện bộ Nội vụ dự phiên họp Uỷ ban Liên bộ khẩn   hoang lập ấp ở Phủ Phó Thủ tướng của Bác Sĩ Phan Quang Ðán. Tôi trình bày   tình trạng quá tải của thành phố, và nêu ý kiến rằng không còn có thể làm gì   cho chương trình khẩn hoang lập ấp hoặc bất cứ chương trình gì của Chính phủ.   Vấn đề duy nhất và rất khó khăn là có giữ được thành phố khi Cộng quân tấn   công hay không ?     Sau khi hội ý bằng điện thoại với Thủ tướng Chính Phủ, Bác sĩ Phan Quang Ðán   cho chúng tôi biết lệnh của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm là ông Thứ trưởng Bộ   Công Chánh làm trưởng phái đoàn liên bộ tức thời đi ra ngay Ðà Nẵng để giúp   quân khu I và thành phố giải quyết các vấn đề cần thiết,     Chúng tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất. Không có phi cơ. Ba chiếc phi cơ của   HKVN đang bị đám đông tràn ngập ở phi trường Ðà Nẵng, không chiếc nào có thể   cất cánh trở về.     Tình thế thay đổi cực nhanh. Chiều hôm đó VC đã pháo kích vào thành phố. Ðà   Nẵng hỗn loạn. Từ đỉnh đèo Hải Vân, Cộng quân pháo kích vào cảng Sơn Chà, Hải   khu Ðà Nẵng nơi binh sĩ và dân chúng tìm cách xuống tàu chạy trốn vào Nam.     Người chết không kể xiết phần tranh nhau xuống tàu đạp nhau chết, phần chết   vì đạn pháo của VC.     Mỹ Khê, Sơn Chà, Nam Thọ, Mân Quang nhuộm máu.     Tại phi trường, có người ôm càng bánh xe phi cơ, có người rúc vào hầm bánh xe   phi cơ. Phi cơ lên cao, kẻ rớt xuống đất, người bị bánh xe ép chết. Có người   bị nghẹt thở chết trong phòng chứa hàng hoá .     Cuộc di tản bi thảm ra khỏi thành phố Ðà Nẵng, các báo chí và các Hãng truyền   thông ngoại quốc đều có loan tin.     10 giờ sáng ngày 29 tháng 3, 1975, một người bạn làm ở Hãng ESSO Ðà Nẵng điện   thoại cho tôi, xe tăng của Cọng Sản Bắc Việt đã vào thành phố.     Hai đầu gối tôi nhũn ra, đứng không vững, tim thắt đau, nước mắt tuôn trào...         A20 Nguyễn Chí Thiệp 
Houston, tháng 3, 2002 
  
 |   
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét