20/1/11

Trại trừng giới



A20 Vũ Ánh
Việt Herald (06/16/2010)
Chén rượu rót vui, buồn bên kia biểntràn trên tay bằng tình nghĩa bao nămAnh em ta rời địa ngục xa xămsống sót quay về từ hơn thế kỷ
Ôi những mái tóc xanh giờ bạc trắngmáu vẫn một dòng chảy với nhục vinhNgười sống mời kẻ chết trong lặng thinhthuở cùm kẹp xưa kia chưa nguôi hận
Một chén tặng cho đời còn như mấtkhóc bạn bè vùi dập ở rừng thiêngtiếc cho thằng sống sót dù còn nguyêntrên đất mẹ cơ hồ như đã chết(Hơn hai mươi năm gặp lại-Nguyễn Thanh Khiết)
Bài thơ trên còn dài. Nó không phải bài thơ của những người HO mà là một trong những bài thơ của một cựu tù nhân chính trị sống sót trở về từ một trại trừng giới: A-20 Xuân Phước. Bài thơ được gởi tặng cho những người từng phải trải qua nhiều năm của đời mình trong cái trại tù độc địa này nhân dịp anh Vũ Trọng Khải từ Úc qua thăm các bạn tù cũ A-20 và có một cuộc họp mặt giới hạn tại Bắc California. Ðọc thơ Khiết, mắt chúng ta sẽ ướt và chúng ta sẽ rất mừng vì trái tim còn biết rung động sau những cảnh đời khắc nghiệt.

Đêm Noel Vùng Dậy tại Suối Máu



A20 Võ Văn Sáu
(Sáu Hồ Hỡi)

      Cuộc biểu tình bất bạo động của hơn 10 ngàn Tù Nhân Chánh Trị -- được gọi là "Học Tập Cải Tạo" -- diễn ra trong đêm Giáng Sinh 24 tháng 12-1978 tại trại tù Suối Máu (Tân Hiệp, Biên Hoà), được anh em tù nhân chánh trị gọi là "Đêm Noel Vùng Dậy" -- là một sự kiện lịch sử -- đánh dấu một biến cố rất đặc biệt chưa từng xảy ra trong các trại tù cộng sản từ sau tháng 4-1975 cho tới thời điểm đó. Nó đặc biệt là vì cuộc tranh đấu nổ ra rất bất thần, đồng loạt, phối hợp nhanh chóng và quy mô trên toàn thể 5 trại : K1, K2, K3, K4 và K5, mà trong đó yếu tố Tôn Giáo đã được dùng làm ngòi nổ.

Hơn hai mươi năm gặp lại





Chén rượu rót vui, buồn bên kia biển
tràn trên tay bằng tình nghĩa bao năm
anh em ta rời địa ngục xa xăm
sống sót quay về từ hơn thế kỷ

ôi những mái tóc xanh giờ bạc trắng
máu vẫn một dòng chảy với nhục vinh
người sống mời kẻ chết trong lặng thinh
thuở cùm kẹp ngày xưa chưa nguôi hận

một chén tặng cho đời còn như mất
khóc bạn bè vùi dập ở rừng thiêng
tiếc cho thằng sống sót dù còn nguyên
trên đất mẹ cơ hồ như đã chết

một chén rót gọi hoài thằng trôi nổi
buổi chia tay tan tác bốn phương trời
rượu đầy sao bè bạn cứ dần vơi
thời yên ngựa, rừng gươm giờ đâu nữa

thằng già chát ôm thằng đang chống gậy
nụ cười không tròn trên vết cùm xưa
nhắc nhau một thời đội nắng dầm mưa
giữa trại giặc dìu nhau qua địa ngục

A 20 tóc tang, trùng trùng xương máu
Xuân Phước, bạn bè nằm đó bơ vơ
chén tương phùng, giống như chuyện nằm mơ
thức dậy, hồi sinh vừa qua một kỷ

cạn hết cho bừng bừng cơn khát cũ
say đi để quên buốt dấu cùm xưa
tiệc tàn để tim nhói đau lần nữa
gặp một lần dù biết sẽ trăm năm

  nguyễn thanh-khiết
  13-06-2010
  (cho những cánh chim A 20 vừa gặp lại
hôm 10-6-2010 tại San José, CA)





Cánh tay nối dài?



 Vũ Ánh/Việt Herald
(02/25/2010)

Có lẽ trong đời làm truyền thanh và làm báo, tôi không ưa những ai gọi người này hay người kia là “cánh tay nối dài của…(ai).” Trong giai đoạn tôi còn giữ vai trò phóng viên mặt trận cho hệ thống truyền thanh quốc gia VNCH dưới thời tổng giám đốc là trung tá Vũ Đức Vinh, người mà chúng tôi còn quí mến cho tới bây giờ dù ông đã khuất bóng, ông cũng bị coi là “cánh tay nối dài” của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. Là trung tá xuất thân từ ngành tâm lý chiến không quân, khi được bổ nhiệm vào chức vụ Cục Trưởng Cục Vô Tuyến Truyền Thanh theo tên gọi của hệ thống năm 1966, ông liền bị coi là “cánh tay mặt” của Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ, thậm chí “bí thư’ của ông Kỳ.

Qua La-Hai…… nhớ



Sông Trà Bương, nước đầy mùa mưa lũ
Nắng sườn đồi chạy xuống đón ta qua
Ta cứ gọi chỗ nầy, ngày tháng cũ
Mười năm xích xiềng giam nát đời ta
Đứng để nhớ, đi đau, ngồi phẫn nộ
Bạn bè xưa đâu biết giạt phương nào
Mùa mưa cũ anh em tìm sinh lộ
Một lần đi, bỏ xác lại rừng cao
Ôi Đồng Xuân vẫn mưa về nước đổ
Mưa có trôi đi được những căm hờn
Dấu đạn thù trên thân tù lỗ chỗ
Bạn ta ơi ngày tháng có đau hơn
Một nén nhang thôi, dọc đường qua trại
Ta thắp cho đời, cho bạn, cho ta
Xin gởi Trường Sơn đâu đó hình hài
Người chiến sĩ chết bên ngoài cuộc chiến

nguyễn thanh-khiết
tháng 5/2009
(để nhớ TQLC trung uý Nguyễn Ngọc Bửu
đã nằm lại nơi nầy sau cuộc chiến)


Bài thơ viết muộn



Chia tay một buổi, không chào, không vẫy
nhìn một giây cúi mặt quay đi
ta bỏ lại A 20 bóng núi xanh rì
có đôi mắt nhìn theo trên sân nắng


hơn hai mươi năm nhục nhằn đời cơm áo
chưa một lần quay lại gặp nhau
đời phũ phàng, trôi dạt chẳng bình yên
sống thoi thóp chờ mong ngày lên ngựa
sống như chết dù lòng ta vẫn hứa
sẽ có ngày cùng uống chén rượu vui
hơn hai mươi năm vùi dập, ngược xuôi
nợ chiến chinh trả hoài không hết
nợ đời nhau những ngày tù còn y hệt
nhốt trong lòng từ một buổi xa nhau


Rồi hôm nay trời đất ngậm ngùi
đôi mắt đó bây giờ thôi đã khép

 
Ta bỏ sáu năm
tìm trong nhức nhối
trong lo âu và nỗi nhớ thuở cùm, gông
Khổng Hữu Diệu ơi! những mùa đông
cái lạnh buốt xương trời Phú Khánh
trên môi khô, vẫn cười khinh bạc
sá chi ngày tù ngục tuổi ba mươi
những cơn đau xé ruột dưới mưa rơi
trong trại giặc và thân tù xanh màu lá
đêm nghe chăng tiếng rên siết của rừng già
thung lũng chết mùa xuân không trở lại
sống như anh, sống tròn như viên đạn
lăn trên đường nát bấy dấu thù xưa
nhớ làm sao những trăn trở ngày mưa
dặn dò nhau vươn cờ lần quay lại


Anh không chết lúc quân tan hàng rã
anh ngày ngày sừng sửng với nhục vinh
mửa máu tươi từ căn bệnh nguyên sinh
cái đói cồn cào làm đau rang chút nữa
cắn răng nuốt sâu, máu tươi còn ứa
hai cuộc chiến âm thầm chưa làm nản cuộc chơi
đất nước không cho dù một chỗ ngồi
anh sốt đau cắn răng nhìn lần cuối
con ngựa bất kham lại một lần dong ruỗi
để anh đi, và đi mãi - thật xa
bệnh tật đuổi theo tuổi đời nghiệt ngã
dù con chim lìa đàn qua hướng lạ
kiếp phù du nên đời chẳng hương hoa
để bây giờ thân xác quạnh phương xa
trên đất khách một ngày bay chưa mỏi


Ta bỏ A 20 những ngày, trong cơn hấp hối
đi một lần, là vĩnh biệt nhau
đôi mắt xưa chưa kịp gởi tiếng chào
giờ đã khép thiên thu tìm đâu nữa
thôi thì bỏ trần gian anh từng hứa
giữ cho đời xanh một màu tươi
tiễn chi nhau, lòng buồn lắm - trời ơi
gặp một đỗi, xót một đời ly biệt


nguyễn thanh-khiết
 TG. 07-06-2010
(khi hay tin anh Diệu không còn nữa)


“Vài mẩu chuyện” và Cao Xuân Huy


Vũ Ánh/Việt Herald
(06/02/2010)

Chiều ngày Lễ Tưởng Niệm, con cái và lũ bạn chúng đi chơi xa, còn lại hai vợ chồng già, không muốn nấu nướng nên rủ nhau đến cháo cá Chợ Cũ. Tình cờ gặp lại “Tháng ba gãy súng” Cao Xuân Huy và vợ. Chúng tôi là đồng nghiệp báo bổ kiếm sống qua ngày không thân, nhưng quí mến nhau. Dĩ nhiên là có màn hỏi thăm sức khỏe, về bệnh tình của ông. Tôi thấy Huy không có gì thay đổi, vẫn sừng sững, vẫn còn cứng cỏi tinh thần, coi bệnh hoạn chẳng là cái gì cả. Huy nói: “Ðể tặng anh cuốn sách.” Huy ra xe và lấy sách. Cuốn sách là một tác phẩm mới của ông nhan đề “Vài mẩu chuyện” với bìa do Doãn Quốc Vinh trình bày.

Nhà văn Duy Lam: “Thân hình khoả nữ với tôi đẹp như một bông hoa!”




LÊ LA


LTS: Nhà văn Duy Lam, 73 tuổi, là một trong những nhà văn có liên hệ tới nhóm Tự Lực Văn Đoàn, với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Nhà Tôi, Chồng Con Tôi v.v., được nhà văn Trần Hồng Châu-Nguyễn Khắc Hoạch đánh giá là nhà văn viết về tính dục bạo nhất (cùng với người em trai là nhà văn Thế Uyên). Cuộc thảo luận nghệ thuật về “Người nổi tiếng vẽ người nổi tiếng” đã mang đến cho ông một số cảm hứng muốn trao đổi. Và, bản thân Duy Lam, bên cạnh việc viết, ông cũng là một họa sĩ nghiệp dư, ưa thích vẽ tranh khỏa thân. Dưới đây là cuộc trao đổi giữa chúng tôi.


LL: Thưa nhà văn Duy Lam, mặc dù ông một người cầm bút, nhưng theo giới thưởng ngoạn, vẫn biết ông là một họa sĩ, mà vẽ tranh khoả thân cũng “tới” lắm. Xin ông cho biết khỏa thân… là thế nào?
DL: Cũng không khác gì các nghệ sĩ, như Picasso trước kia, tôi rất mê vẻ đẹp hình thể của phụ nữ. Cái đó cũng tự nhiên thôi. Đối với nghệ thuật của thế kỷ 15, sau khi thoát khỏi thời kỳ tăm tối. Các nhà danh họa như Leonard De Vinci, Raphael vẽ khỏa thân rất nhiều, tuy nhiên tôi thích tranh khỏa thân của Matisse và Cezanne, vì những vị này đã làm mới khỏa thân rất nhiều, so với sự cổ điển của các nhà họa sĩ thời Phục Hưng. Những bức tranh trong trường phái Biểu Hiện của Renoire cũng làm tôi yêu thích hội họa khỏa thân bậc thầy. Nói tóm lại, khỏa thân là truyền thống lâu đời của hội họa. Khi hội họaTây phương du nhập vào Việt Nam qua trường hội họa Đông Dương, các họa sĩ Việt Nam đã lãnh hội ngay làn gió mới này, phải kể đến Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái, Lê Phổ v.v. Những bài học khỏa thân có người mẫu thật để các họa viên tập hình họa trên căn bản của cơ thể người mẫu. Khỏa thân vào qua ngả trường ốc. Sau đó họ có triển lãm, tuy dè dặt. Ngày nay, chúng ta đang ở trung tâm văn hóa thế giới, là Mỹ, dĩ nhiên, tranh khỏa thân đã bình thường. Mặc dù vậy, đối với giới thủ cựu, tranh khỏa thân muôn đời bị giam hãm trong những định kiến. Hình thể đẹp đẽ của người phụ nữ vẫn muôn đời bị đóng khung trong áo quần và những phép tắc luân lý xã hội. Hai khuynh hướng cởi mở và thủ cựu vẫn song hành với nhau qua nhiều, nhiều thế kỷ. Đối với giới nghệ sĩ, nhất là họa sĩ, vẽ khỏa thân và triển lãm cũng không phải là chuyện mới mẻ nữa. Vấn đề là phải vẽ như thế nào thôi.


Về cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu”


Vũ Ánh/Việt Herald
(05/07/2010)

Kỳ 1

Ðây là một cuốn sách thứ ba của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu.” Hai cuốn trước đó là “Hồ sơ mật Dinh Ðộc Lập” và “Khi đồng minh tháo chạy.” Tất cả những tác phẩm của ông đều rất đồ sộ với phần tổng hợp những chứng liệu đã được giải mật của Hoa Kỳ và bộ sưu tập của riêng ông.


Từng là Tổng Trưởng Kế Hoạch và Cố Vấn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, cho nên những điều mà tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết ra trong tác phẩm của ông phải là những điều cần đọc và nên đọc. Ðiểm cần nhấn mạnh ở đây rằng lần này, có phần tâm tư của Tổng Thống Thiệu, một cựu lãnh đạo VNCH mà cho đến lúc qua đời, không có cuốn hồi ký nào hay để lại những bút tích về một giai đoạn chiến tranh nghiêm trọng liên hệ đến sự mất còn của miền Nam Việt Nam.

Đưa em về thăm A 20





Em đừng hỏi nơi nầy xưa rất vắng
Chỉ là rừng theo núi tuốt ngoài xa
Trường Sơn chia đôi ở giữa giang hà
Về trại cũ phải lần theo vách đá

Anh không kể những ngày quân tan rã
Làm anh đau phải bẻ nạng chống trời
Mấy năm dư mỏi mòn trên biên giới
Một lần về anh lỡ bỏ cuộc chơi

Chỗ nầy La-Hai khô cằn oan nghiệt
Kia, đường về Xuân Phước chỗ không vui
Bạn bè anh bao xác đã dập vùi
Nơi chí cả không tính vào may rủi

Mưa miền Trung rét căm căm gió núi
Trên tay tù ba bữa chỉ là khoai
Nước muối chan cơm đâu có tính ngày
Năm nầy, năm khác tuổi tù lớn mãi

Có những khi nắng Lào như nung cháy
Vạn thân tù còm cõi vác oằn vai
Gánh sơn hà mới đó chẳng nghỉ tay
Giờ thêm nặng một đời tù oan trái

Em đừng hỏi nơi nầy là quán tạm
Chỉ là nơi người sống ghé nghỉ chân
Dãy đồi xa xa ở dọc ven rừng
Đứng như thể bạn bè anh chôn đứng

Người chết đứng nhìn núi sông buồn thảm
Người sống còn chui xuống tận hang sâu
Đời lất lây như nước chảy qua cầu
Cánh chim mỏi tìm không ra cành đậu

Anh đưa em tới nơi cùng của đất
Như một lần sờ vết cắt trên da
Anh yêu em như giọt máu sơn hà
Mà chưa chắc cuối đời anh rửa được.

nguyễn thanh-khiết
11/09





Kỹ thuật “nhuộm đen” của Cộng Sản



Vũ Ánh/Việt Herald

Mới đây, tin tức từ Việt Nam cho thấy nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, tác giả cuốn “Viết từ hang đá, nhỏ lệ cùng dân” và người chồng bị đưa ra xử trước tòa án không phải vì cái tội “chống đảng” mà là do một tội hình sự, kết quả của một phản ứng mạnh tay đối với đám côn đồ do công an Hà Nội gài trước nhà riêng của hai vợ chồng nhà văn này. Nhưng mưu mô  được xếp đặt rất lộ liễu và theo luật pháp của chính quyền Cộng Sản, với một tội “đả thương” như thế không thể nhốt hai vợ chồng nhà văn này lâu như vậy được. Do vậy, dư luận dân chúng cho rằng đây là trò “nhuộm đen” thường được sử dụng tại những quốc gia độc tài, những chế độ “mafia” và đặc biệt là trong chế độ Cộng Sản nhằm hủy diệt uy tín của những nhà đối lập, bất đồng chính kiến.

Tháng tư những ngày ta nhớ


Một
Tháng tư ta ngồi trong phòng vắng
nghe mưa đầu mùa rớt ngoài hiên
ba mươi lăm năm một trận địa im lìm
mà lắm máu xương và nước mắt
trong gió ta nghe có ai về gọi
tiếng bạn bè với tiếng cùm khua
nhớ A 20 gió Lào trở mùa
biết bao đứa xác còn ở đó


Hai
Mùa hạ như vầy chiều nào nóng đỏ
Phạm Đức Nhì vừa ra khỏi biệt giam
là sống sót sau trận chiến kinh hoàng
là đơn độc, kiên cường
là dằng dai, là bất tử
Mùa hạ đau Bùi Đạt Trung gần xỉu
mới tháo cùm còn lở loét ống chân
bao lần uống nước tiểu Nguyễn Tú Cường
để sống sót, ngẩng cao đầu bất khuất
những trận đánh không bao giờ có trong sách sử
không bài học nào từ cổ chí kim
oanh liệt hơn trước họng súng kẻ thù
cao cả hơn những anh hùng tự tử


Ba
A 20 , mùa đông nứt môi rét cóng
ngồi co ro chia nhau bi thuốc lào
ở tận cùng chẳng kể thấp cao
dựa lưng lặng lẽ dìu nhau qua địa ngục
A 20, Trường Sơn đông, tây trốn mất
dưới lũng nầy một mặt trận suốt nhiều năm
nước mắt khô chảy trong cổ âm thầm
dưới màu cờ và những hy sinh sau ngày tan trận
bạn bè ta, bao thằng nuốt hận
còn ngoi lên, dù không giành lại cơ đồ
mà nó là vinh dự của thằng cầm súng
trước kẻ thù, trước sông núi tan hoang


Bốn
Trời tháng tư ta già nua bất lực
nhớ một thời tù ngục, của ngày xưa
ôi ! Ánh, Khải, Mạnh Phan, Chí Thành
ôi ! Cương, Ngọc đen, Cường, Dũng
và còn biết bao chí cả
kẻ ở, người đi, đứa chết, đứa lạc loài
tháng tư ơi, giọt lệ còn lăn, còn nóng
ta nhớ, ta thương, trên chòm tóc bạc
có biết đời này… còn mấy buổi gặp nhau
tháng tư về với ta đen một màu
như vết máu đã khô trong lồng ngực


nguyễn thanh-khiết
tháng 04-2010
(viết cho bạn bè ở A20)



đêm trăng hoang dại



về sông mao
về chợ lầu phan rí
phòng tuyến dài từ dạo ấy sang xuân
sân ga vắng phố chàm trăng hoang dại
tháp hời khuya chìm vô vọng trăm năm
đồi sương đọng dấu giày mờ lau lách
trảng lưa thưa mưa xóa bãi mìn chông
mùi máu tươi oi nồng bên lộ vắng
tai kiếp rình mò
chẳng khước từ ai
đêm hôm ấy trăng khuya đồi bát ngát
tôi theo trăng về muộn trước sân ga
nghe xa vắng còi tàu qua phố chợ
thân thế bọt bèo sống chết theo mây
dòng sông tím nước trôi mù mịt sóng
cuồn cuộn tai ương


đời bạc đến vô cùng
tôi đứng trên đồi
lau sậy đôi bờ đêm trắng xóa
soi bóng mình chìm nổi lênh đênh
người ngợm dỡ hơi
một thời quá tải
tiếng ai hú rừng chồi
vọng về lớp lớp
sóng từ trường trời đất giao thoa
khoảnh khắc mong manh vỡ tràn huyết sử
cô em chăm mắt đẹp thiên thu
buồn não nuột
ngàn dặm sao hôm
đêm sông mao về trong cô quạnh
còn nghe điệu hát hồn câm
kinh thành đổ tượng chàm u tịch
phía biển trời phát tán
lửa ưu trầm trăm năm

cáitrọngty   09
 (trích từ Thư Quán Bản Thảo tập 40 tháng 12-2009)



Bà Mẹ Việt Nam Trên Chuyến Tàu Thống Nhất

Cố thi sĩ Phan Lạc Giang Đông 
-->
Cựu tù trại trừng giới A 20 (1980-1987)


-->




Bà Mẹ Việt Nam Trên Chuyến Tàu Thống Nhất



* Lời giới thiệu: Bà Mẹ Việt Nam Trên Chuyến Tàu Thống Nhất được Phan Lạc Giang Đông sáng tác ở Ga Đồng Hới, năm 1984, trong một chuyến đi buôn trên tuyến đường Nam Bắc . Tác giả đã chứng kiến cảnh công an lên tàu kiểm soát, nạt nộ, đuổi xuống tàu một bà lão ăn xin .. Tình cảnh của bà lão đã khiến tác giả thương cảm, liên tưởng tới cảnh đau thương của đất nướ , là hậu quả của một cuộc chiến tranh ý thức hệ tương tàn, khốc liệt, phi lý đã diễn ra trên mảnh đất quê hương Việt Nam, kéo dài mấy chục năm . Đây là một bài thơ, vừa có giá trị hiện thực vừa có giá trị tượng trưng, phản ảnh sâu sắc lịch sử và xã hội Việt nam đau thương hơn nửa thế kỷ qua (Hồ Công Tâm)


khúc tạ Tuy-Hòa



thuở gió lùa mây rừng tới biển
mắt Em nghiêng xuống đã trùng khơi
thuyền đi - con nước theo Em mãi
đôi mắt trời ơi - cháy một đời

tôi trót hôn mê màu mắt ấy
màu ve chai Em tàn nhẫn nhốt tôi
tôi đóng đồn xa nắng lạc lưng đồi
thời động loạn sá gì thân với thế

yêu Em giữa một Trời thất lạc
chiếc bóng buồn lê - sắc dị thường
chiều tàn theo bóng vàng lau dại
hạnh phúc gầy trên những nốt sai

đêm trắng đồi mây đùn lớp lớp
tôi giật mình trăng vỡ bên sông
trăng nhểu xuống vàng khuya lênh láng
đò theo trăng biền biệt biển đông

lòng bàn tay có một chỉ thừa
đường Em đi tôi về ảm đạm
Em đem rét mướt lên môi xám
mỗi bước Em xa một đoạn tình

một hôm tôi lạc đường đi mãi
Trời Tây phương tôi ngóng phương đoài
Liên xưa - Hoàng hạc - sông Đà trắng
ngắt vội bên bờ một đóa sen

theo Em đuổi bắt từng hơi thở
Liên đốt tình tôi lửa cháy thành tơ
tôi cấy đời thơ - luống đời em mọc
tình tôi đau - ngậm ngải sắc màu

Cái Trọng Ty
2010