7/3/11

Ngậm Ngùi Tuổi Hạc

  
Chia tay nhau từ những năm sau 1980, A20 Nguyễn Văn Học đã bay một mình giữa trời gió bão
Hôm nay anh  về Quán Lá, căn nhà của những cánh chim đã mỏi, bằng bao năm chinh chiến, bằng bao tuổi ngục tù, A20 Nguyễn Văn Học đã viết lại trăn trở của mình từ những năm 2008, anh viết cho anh, cho bè bạn, cho thế hệ mai sau.
 Quán Lá mời các anh lắng nghe tiếng kêu gần như tuyệt vọng của con hổ ngày xưa trên chiến trường đẫm máu, tiếng kêu dưới màu cờ mà anh đã một đời dâng hiến cho đến ngày buông tay, Hãy lắng nghe tâm sự của một A20 từng chia với chúng ta ngọt bùi suốt những tháng năm trong Trại Trừng Giới .


Ngậm Ngùi Tuổi Hạc

A20 Nguyễn Văn Học


       Cuộc đời tỵ nạn đã là những chuỗi ngày bàng bạc nỗi buồn - Đến mùa Quốc Hận, nỗi buồn tăng thêm cường độ, vì những kỷ niệm đau xót lại trở về - Đầu óc cũng trở nên lãng đãng bởi những suy tưởng về ý nghĩa cuộc đời.

       30 tháng Tư năm 1975 đến 30 tháng Tư năm 2008, đã qua 33 năm - Những chàng trai phương cường, những thiếu phụ xinh tươi thuở ấy, tuổi ngoài ba chục, đến nay đã tròm trèm bảy chục - Gần bảy chục tuổi của các ông, bao gồm cả thời gian đại hạn, khổ sai trong lao tù cộng sản, đa số bề ngoài cũng đã hom hem lắm lắm . Trong những người hom hem đó có tôi - Chuyện này không làm tôi buồn, vì bè bạn, nhiều người giống mình, nên gặp nhau, chẳng có gì lạc lõng, cứ vui cười thoải mái.

Thư cho A.20



Thưa tất cả các Niên Trưởng, Huynh Trưởng và anh em A.20,

Tôi không phải là người biết viết lách như anh Alpha Vũ Ánh, như Bùi Đạt Trung (Điên), như anh Tống Phước Hiến, chị Lê Thị Xuân (Tống Phước Hiến phu nhân) hoặc ngay cả cháu Tống Phước Xuân Hà (con gái út của anh chị Tống Phước Hiến), và một số anh em khác viết rất hoa mỹ và làm cho người đọc rung động.

Nhưng tôi xin đến với quý vị trong Trại Trừng Giới A.20 với tất cả tấm lòng của tôi.

Tôi nhờ Phật độ nên “được” về tương đối sớm (cuối năm 1981 sau 2 năm 10 tháng tại A.20) cùng toán với anh Trung Tá Ngân (không tin tức gì nữa sau khi anh bước xuống ga Nha Trang rồi hình như đi vượt biên rồi mất tích luôn trong khi toán còn lại xuôi Nam).

DI HUẤN TRONG HUYỀN THOẠI



Trong thế giới của chúng ta, những người đi trước thường để lại dấu ấn cho thế hệ đi sau .
Chính nó dẫn dắt cái thế hệ đó đi theo con đường đã hướng. Trọng trách mà chúng ta vác trên vai không phải là chỉ khu xử với nhau, nhìn nhau trong cái nhìn của một thời tù ngục không thôi. Ngoài cái trách nhiệm cho chính chúng ta, còn một trách nhiệm không sao quên bỏ ... Những người trẻ..
Quán lá xin trân trọng giới thiệu bài viết của Tống Phước Xuân Hà con gái của A20 Tống Phước HiếnCựu CSQG thiếu uý Lê Thị Xuân, bài được viết khi cháu lên 16 tuổi.

---------------
  
DI HUẤN TRONG HUYỀN THOẠI

                                               Tống Phước Xuân Hà

Tôi nhớ thuở còn thơ dại, ba tôi hay kể cho nghe những câu chuyện huyền thoại trong lịch sử Việt Nam. Trong những câu chuyện ấy, có một chuyện thật đặc biệt mà tôi khắc ghi trong lòng, đó là chuyện về “Thánh Gióng”. Tôi thích, vì câu chuyện này mang tính chất thần kỳ.
 
Chuyện kể lại rằng: Vào đời Hùng Vương thứ 6, tại làng Phù-Đổng, thuộc bộ Vũ-Ninh, Nước Văn-Lang (tên nước Việt-Nam thời bấy giờ) có một cậu bé bị dị tật bẩm sinh vì đã ba tuổi mà còn nằm nga; không biết nói, không biết cười, không biết lật, không biết bò; nhưng sau đó lại trở thành một vị Anh Hùng Dân Tộc.

 Tới khi tôi lớn lên, ba tôi mới giải thích cho tôi hiểu rõ hơn mục đích của câu chuyện.  Hôm nay, tôi xin được chia xẻ với các bạn những gì tôi đã học được từ câu chuyện thần thoại này.
 
Theo tôi thì trong câu chuyện Thánh Gióng, Cha Ông ta đã để lại lời di huấn như sau :


5/3/11

Tâm tình với các đồng đội A-20 Xuân Phước



A20 Vũ Ánh

Tôi không phải là người đầu tiên được Hải bầu báo tin cho biết người bạn đời của anh đã ra người thiên cổ ở tuổi 60. Cái tật ít nghe lời nhắn trên cell khiến tôi chùng xuống vì ân hận khi vào sáng tinh mơ, Phạm Đức Nhì ở Galveston gọi cho tôi báo hung tin. Tôi không gọi cho Hải bầu, vì tôi biết trong giờ phút ấy, những lời an ủi chẳng có tác dụng gì giữa cái mất mát to lớn của người bạn tù thân thiết của mình. Hải làm ở gần tòa soạn tôi, thỉnh thoảng anh em gặp nhau để bàn về chuyện tổ chức gặp mặt vào Tháng Bẩy này. Tôi biết hoàn cảnh của Hải bầu rất khó khăn, tôi lại không giầu có gì, nhưng không hiểu sao vào giây phút khẩn cấp ấy tôi nghĩ  những anh em nào đã chia nhau từng miếng khoai hà, từng chén canh đại dương, canh giây thép gai, mắm đã có giòi trong những bữa cơm tù, từng nhìn thấy cảnh một bi thuốc lào mà bốn năm đứa chuyền tay nhau kéo, từng vá cho nhau những miếng vá trên các bộ quân phục đã bắt đầu mục rách… có thể giúp tìm ra một giải pháp.

BÔNG HỒNG TRÊN VẾT DẦU LOANG


A20 Bùi Đạt Trung

Ngày buồn rồi sẽ qua đi, sinh hoạt Quán Lá cũng sẽ trở lại bình thường, nhưng dư âm vẫn còn đọng lại trong chúng ta với quá nhiều cảm xúc, tự hào và hãnh diện vì mình là “A.20”

Khi biến cố xảy đến cho gia đình Hải Bầu, một số A.20 xa gần thường liên lạc với “Bầu” rất lo lắng, quan tâm và chia xẻ…., lên net thông báo cho Quán lá, những chỉ có lẻ tẻ hồi đáp, hầu như gặp “bức tường im lặng” vì đa số không có xử dụng computer và không có theo dõi sinh hoạt Quán Lá qua email.

Lúc đầu Quán có vẻ thất vọng và muốn bỏ cuộc, sợ rằng sự tồn tại sẽ không còn bao lâu nữa, nhưng bây giờ mới thấy ý nghĩ đó hoàn toàn sai lầm.

28/2/11

Gặp lại nhau mừng quá



Nhớ lại thuở, cùng quê hương mạt vận,
Chia tù đày, chung một nổi ưu tư.
Chỉ ánh mắt, nụ cười ta cũng hiểu
Đường ta đi cay đắng những vần thơ.
Nhớ lại nhau, nghe cay trong khóe mắt
Vẫn nhớ hòai thời cùng nhau nhốt lệ
Và bây giờ mình trãi lệ cho nhau!
Bạn tù ơi, tuổi ta gần huyệt mộ
Đường về quê thao thức những đêm thâu
Đại dương ơi, máu tim còn tha thiết
Chuyển giùm ta cơn nhớ đến dại khờ 

A20 Tống Phước Hiến  
Sat, February 26, 2011




Hỡi con ngựa chứng ngày nào



  (Viết cho A20 Trần Kim Hải, ngày chị ra đi)

Đừng ngã xuống vì những bi thương đời sống
đừng thẫn thờ khi nhìn lại gối chăn
thuở ngang tàng, vùng vẫy với núi sông
hỡi con tuấn mã của những ngày tù ngục
biết bao kẻ gõ bồn ca khi vợ chết
phải nén lòng riêng - ngày lửa dậy trời Nam

Trần Kim Hải - hãy cao đầu đứng dậy
tiếng hát anh còn lồng lộng trên cao
dù một đỗi qua bao nhục nhằn, khổ nạn
dù lệ rơi khi chiếc bóng đêm trường
dù gánh đời vội gãy dọc đường
nhưng còn đó những lầm than
thuở nằm gai nếm mật
nợ tang bồng, chí cả, để ai mang?

Biết là đau, là thương, là nhớ
mất "một người" đâu dễ lệ không rơi
mấy mươi năm tựa nhau giữa cuộc đời
cùng một chén đắng cay ngày biệt xứ
tội chưa?
con tuấn mã bây giờ què quặt
bước thấp cao cho hết hành trình
vất xuân xanh theo cuộc chiến chinh
trong xiềng xích chưa một lần cúi mặt
chân lết trên tự do với nỗi buồn vắng ngắt
bắng hữu dăm ba, dở khóc, dở cười
Trần Kim Hải ơi!
lồm cồm đứng dậy đi thôi
nợ thủy chung hãy dập đầu ba lạy
sau lưng người còn có vạn cánh tay
dựa vào đi mà ngó lại giang san
gạt nước mắt, mím môi cười một nụ

A20 nguyễn thanh-khiết
SG 26/2/2011



26/2/11

Cải tổ-Va chạm-Thị phi



Vũ Ánh/Việt Herald
(02/24/2011)

Hôm ông Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng Trưởng Dân Vận-Chiêu Hồi xuống thăm và vui xuân với anh em trong ban vận động để tổ chức ngày Hội Ngộ của gia đình Thông Tin-Dân Vận-Chiêu Hồi VNCH, chúng tôi mới có một chút thời giờ ôn lại một giai đoạn làm việc khá gắn bó với nhau vào một giai đoạn đất nước có nhiều biến chuyển hệ trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước.

Trong hơn một thập niên làm việc trong ngành này, chúng tôi-được mệnh danh là những cán bộ trẻ tuổi vào lúc đó-đã trải qua nhiều đời tổng trưởng, từ hàng tướng lãnh, học giả, viên chức hành chánh, cho đến các chuyên viên hàng đầu. Tình thật mà nói, mỗi ông một vẻ, mỗi ông có cách đối phó, mỗi ông có thế lực chính trị riêng, đường lối chỉ đạo riêng, không ông nào giống ông nào. Vì thế, có nhiều cách nhìn về hiệu quả của công tác thông tin, dân vận và địch vận mà bên chính phủ gọi bằng từ ngữ chung “dân vận-chiêu hồi”.

Bên dòng Trà Bương



tuyệt đường Kỳ Lộ lưu đày
kiếp tù lỡ vận kéo cày vỡ hoang
trông xa tre gẫy măng tàn
xó rừng Xuân Phước úa vàng bãi dâu

hương tan mùi Tết cơ cầu
vàng mai ngõ trước Em đâu dấu hài
vườn Uyên phương ấy mùa phai
nhớ người úa sắc dặm dài sóng mây

bỗng khi không vướng tù đầy
mộ tình thiên lý nhìn cây nhớ rừng
tù qua đây đất rưng rưng
nghe trong lao nhục mấy từng khổ đau

kiếp tằm giăng mãi tơ nhàu
Em chìm khổ nạn bạc màu phế nan
thôi Em đường rẽ xế tàn
miếng cơm manh áo võ vàng xót xa

trông lên hạnh phúc trăng tà
trông sao Khuê đã mù xa bến trời
lạnh bờ cát ẩm mù khơi
nghe hơi Thu tận tơi bời dáng Thu

đêm về bóng đổ âm u
rừng Thu lá rụng xuân tù áo quan
hết trăm năm cuộc chiến tàn
khói mùa lửa đạn cháy vàng chiến y

CÁI TRỌNG TY


(nguồn: http://caitrongty.wordpress.com/)

22/2/11

THIÊN ĐƯỜNG ĐỎ



Quán lá xin trân trọng giới thiệu với các A20 và những chiến binh một thời bất khuất bài viết từ xương máu của A20 Tống Phước Hiến phu nhân, Thiếu úy CSQG Lê Thị Xuân. Một gia đình A20 đã bỏ một thời hạnh phúc trong những ngày điêu linh của đất nước, đọc để lắng sâu vào tâm thức sự chịu đựng của chị và những đòn thù ập xuống gia đình một A20 kiên cường như chính anh đã từng sống và chiến đấu với đồng đội suốt những năm tháng trong những trại tù ,Quán lá xin nghiêng mình trước A20 Tống phu nhân


                                                          
                           Lê Thị Xuân       


     Tối ngày 28.6.1975 tôi bị di chuyển cùng chung với chồng từ Trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng tại Sài Gòn đến Trại Suối máu được khoảng 1 tuần lại bị chuyển đến trại Thành Ông Năm, Hóc Môn do đoàn 500 cộng sản quản lý. Trại chia làm hai khu: Nữ Sĩ Quan (SQ) Quân đội, và  Nữ SQ/ CSQG. Chúng tôi bị chia thành từng B và phải chen lấn lẫn nhau trong một diện tích chỉ đủ để  nằm nghiêng. Lúc nầy tôi mang thai cháu đầu lòng gần 7 tháng. Đây là thời gian thai nhi phát triển, nên thai phụ cần được nghỉ ngơi, thoải mái, tránh bị những áp lực và thai phụ cần phải được thực phẩm dinh dưỡng vừa tinh khiết vừa đầy đủ. Nhưng với tôi thì hoàn toàn trái ngược. Ngoài môi truờng sống quá thiếu vệ sinh, lại phải ngồi nghe học tập, thảo luận, đấu tố. Thể chất mệt mỏi, tâm trí lúc nào cũng lo sợ cho bản thân, cho gia đình và cho chồng . Thai nhi càng lúc càng phát triển nên tôi thèm ăn lắm, nhưng bụng thì lúc nào cũng đói, dinh dưỡng chẳng có, áp lực càng lúc càng nặng và rồi hai chân tôi bị quỵ, chỗ kín bị ra máu, không được chữa trị hoặc thuốc men. Tôi đuối sức! Trước tình trạng sức khỏe tồi tệ và mạng sống của tôi bị đe dọa, ngày 12/8/75 Cộng sản (CS) thả tôi về với lý do: “tạm hoản quản huấn vì sắp đẻ” (nguyên văn).
           

21/2/11

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

                  
          Với các bạn thuộc thế hệ kế tiếp
 
 
Tống Phước Hiến
 
 
Cho phép tôi được tâm-tình với các bạn,  những người chưa kịp tham gia vào cuộc chiến trước năm 1975và phải mang thân phận ly-hương tủi-nhục; hoặc phải bị nhìn về một phía bởi đôi lá chắn.                     
Vâng, chế-độ Cộng-sản tự cho mình là tên xà-ích và buộc các bạn làm thân ngựa phải gò lưng  kéo cỗ xe chĩu nặng tội ác với  hai miếng da chắn tầm ước vọng tuổi trẻ. Chút tâm tình nầy không mang ý nghĩa “Nói với tuổi 20” ( tên một tác phẩm của Thượng-Tọa Thích Nhất-Hạnh ) và thiết tha xin các bạn đừng có thái-độ “Nói với kẻ 40”(Trích từ lá thư trong tác phẩm“Ý-thức mới trong văn-nghệ và triết học của Phạm-Công-Thiện).
             Các bạn trẻ thân kính,
Dù tuổi của các bạn còn trẻ, nhưng tôi vẫn  kính trọng, bởi tương lai quê-hương chúng ta do chính các bạn định đoạt; và cũng chính các bạn là những người đang viết tiếp giòng lịch-sử gần 5.000 năm  giống nòi Lạc-Việt.
Thành thật, tôi không dám ở vị-trí mà nói theo thuật ngữ lịch sử là thế hệ bàn giao. Vì chúng tôi có gì để bàn giao, nếu không muốn nói chúng tôi đã bàn giao thân phận của một Dân Tộc có Tổ Quốc  kiêu hùng, có giang sơn gấm vóc, có lịch sử  bất khuất, có nền Văn Hiến từng rực rỡ Phương Đông, nay trở thành những kẻ mất Quê hương, cho dù lưu vong hay còn tại quê nhà ! Vì dù ở nơi đâu mà người được quyền thừa tự nay bị biến thành kẻ chỉ được nhận sự ban cấp từ giai cấp thống trị thì có khác gì nhau.

A20 Vũ Đình Thụy với Giải Vasyl Stus



A20 Võ Lâm Tể

Trước biển hoàng hôn

Một mình trước biển hoàng hôn
Nhìn theo con nước sóng dồn ra khơi
Mênh mông tựa sát chân trời
Cô đơn réo gọi như lời của ai
Em về chẻ tóc làm hai
Cho ta một nửa nối dài tuổi thơ
Em ơi đời huống hững hờ
Thuyền ta neo giữa biển mơ đã chìm
Để rồi tình cũng lặng im
Chân mòn mặt đất qua thềm lãng du
Tuổi vàng như lá mùa thu
Xạc xào trên cát mịt mù thế nhân
Thế nhân ơi nửa chừng xuân
Phải chăng con tạo cũng ngần ấy thôi
Em về chẻ tóc làm đôi
Thay dây mà nối nhịp cầu tri âm
Cho dù tóc trổ hoa râm
Chén đời mật đắng tơ tằm vẫn se
Này Em hãy lắng mà  nghe
Thuyền kia vỗ sóng cầu tre gập ghềnh
Quê hương! Ừ, lắm hữu tình
Ai đi mà chẳng quay nhìn bóng xưa...

Hướng Dương Vũ Đình Thụy
(trại tù A20 Phú Yên 1993)

3/2/11

Cành mai vỡ vụn


Qua tết là bắt đầu thê thảm
Sau những ngày hò hát quốc ca
Duy Trác nhà nghề đi tiền trạm
Theo sau lần lượt hốt từng nhà
Biệt giam mùa xuân như mở hội
Vừa hết kẻ vào tới người ra
Những cái cùm bắt đầu nóng hổi
Lũ thép quen hơi máu người nhà
Giặc có cách lần dò dấu vết
Ta có chiêu tịnh khẩu như bình
Lẽ dĩ nhiên rốt cùng đoạn kết
Cái thắng về phần kẻ cầm binh
Sau tết ngồi thương cành mai vỡ
Mai vỡ từng cành ta thấy đau
Hôm nào cao giọng cùng hớn hở
Giờ trông tan tác buồn làm sao
Chung một con sông cùng chèo chống
Qua khúc quanh xuồng gãy tay chèo
Nước cuốn bèo trôi nhìn vô vọng
Chiếc lá trên cành cũng buồn theo
Biệt giam chỉ cách vuông sân rộng
Giặc gác ngày đêm trên tháp cao
Nhiều khi cũng muốn giang tay chống
E động khắp vùng gây xôn xao
Những cánh mai vàng chưa phai nhụy
Rụng tan thương dưới đám gió rừng
Buồn quá đỗi thèm làm chốt thí
Đổi lái một lần để qua bưng
Tám năm ta hoá thành nhu nhược
Thấy chết can tâm trố mắt nhìn
Suy cạn nghĩ cùng thôi nhường bước
Cố nén cho qua cơn bực mình


nguyễn thanh-khiết
Sau tết 1984



NHỮNG TIẾNG HÁT BỪNG SÁNG A 20



A20 Phạm Đức Nhì

    
Kỷ niệm 29 năm ngày khai hội Tù Ca tại trại A20, Quán Lá xin giới thiệu cùng tất cả cựu tù Xuân Phước và thế giới đấu tranh, một trường ca bất khuất không bao giờ lãng quên trong lòng những con đại bàng.  A20 Phạm Đức Nhì sẽ dẫn chúng ta sống  lại những ngày tháng kêu hùng của Tết năm 1982, dưới gông cùm khắc nghiệt của trại Trừng Giới, dưới bạo tàn của các cai tù mang giòng máu liên khu 5. Hãy nhìn một chặng đường oan nghiệt mà những cựu tù Xuân Phước đã qua. Trong ngời ngời đao kiếm đó tinh thần của các con đại bàng A20 vẫn bất tử.




NHỮNG  TIẾNG  HÁT  BỪNG  SÁNG  A 20


Lời nói đầu

Cách đây 29 năm, vào ngày mồng 1 tết năm Nhâm Tuất (1982) ở phân trại E, A 20 có 3 thằng điên - giữa lúc không khí căng thẳng, kỷ luật khắt khe, ăng ten lộng hành, đã tụ họp, bàn tính tổ chức một buổi văn nghệ “ phản cách mạng “ biểu dương tinh thần bất khuất, ý chí quật khởi của những người tù chính trị, những chiến sĩ đấu tranh đòi tự do, nhân quyền. Tôi và một số anh em khác bỗng biến thành những kẻ dại khờ bị 3 thằng điên gây máu lửa đẩy vào cuộc chơi. Sau này ngồi nghĩ lại những hành động điên khùng, dại khờ lúc đó, lòng bỗng thấy vui vui. Té ra hình ảnh những ngày tết năm ấy đã chiếm một khoảng trong tâm hồn mình, đã thành một kỷ niệm khó quên. Xin được phép chia sẻ kỷ niệm ấy với các bạn tù A 20
                   Phạm Đức Nhì


GẦY  SÒNG  THẤT  BẠI

          Khoảng giữa năm 1979 tôi bị giải từ Bù Gia Mập - Phước Long - về Z30D Hàm Tân. Ở đây tôi làm bạn với Vũ Mạnh Dũng - một sinh viên bị bắt vì tham gia những hoạt động của sinh viên đại học chống chính quyền Cộng Sản. Dũng chơi guitar khá nhuyễn, biết nhạc lý và hát cũng rất hay. Dũng cho tôi biết ở trại có ca sĩ Duy Trác (một trong hai nam ca sĩ hát hay nhất miền nam trước 75) và anh Trác đã sáng tác hai bản nhạc được anh em ưa thích là "Lời Nguyện Trong Tù" và "Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về". Tôi nhờ Dũng đưa đến gặp anh Trác. Anh Trác vui vẻ trò chuyện với tôi và đồng ý về một buổi văn nghệ bỏ túi để các bạn tù từ các trại trao đổi tù ca với nhau. Dũng cũng cho biết ở đội trốn trại bên một khu khác có "Mưa Trên Ngục Tù" của Nguyễn Hưng Đạo và "Nếu Quả Ta Là Người" – không biết của ai – mà anh Ruyệt hát rất hay.

1/2/11

KHÔNG THÍCH CỦA NÀO TRỜI TRAO CỦA NẤY (Part 2)






Trước 1975, khi du khách đến Đà Lạt và ghé Hồ Than Thở đều thấy có một tấm bảng to tướng với những hàng chữ đập vào mắt mọi người:

"TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM,
NƠI QUY TỤ NHỮNG CHÀNG TRAI VIỆT CÓ LÝ TƯỞNG QUỐC GIA"