7/3/11

Thư cho A.20



Thưa tất cả các Niên Trưởng, Huynh Trưởng và anh em A.20,

Tôi không phải là người biết viết lách như anh Alpha Vũ Ánh, như Bùi Đạt Trung (Điên), như anh Tống Phước Hiến, chị Lê Thị Xuân (Tống Phước Hiến phu nhân) hoặc ngay cả cháu Tống Phước Xuân Hà (con gái út của anh chị Tống Phước Hiến), và một số anh em khác viết rất hoa mỹ và làm cho người đọc rung động.

Nhưng tôi xin đến với quý vị trong Trại Trừng Giới A.20 với tất cả tấm lòng của tôi.

Tôi nhờ Phật độ nên “được” về tương đối sớm (cuối năm 1981 sau 2 năm 10 tháng tại A.20) cùng toán với anh Trung Tá Ngân (không tin tức gì nữa sau khi anh bước xuống ga Nha Trang rồi hình như đi vượt biên rồi mất tích luôn trong khi toán còn lại xuôi Nam).

Đến giữa năm 1992 thì tôi qua Mỹ theo diện “Quân nhân đi tù trên 3 năm được chính phủ Mỹ cho qua Mỹ với tư cách tỵ nạn chính trị” nhờ ít nhiều có sự can thiệp của bà Khúc Minh Thơ.

Sau một thời gian thật là lâu, đột nhiên tôi gặp trang nhà của Trại Trừng Giới A.20 trên mạng, khi tôi đọc được một bài viết ca tụng cháu gái con anh Đoàn Bá Phụ được giải thưởng Bill Gates. Tôi mò vào trang nhà đó và sau đó được công nhận là một thành viên của A.20, và tôi hãnh diện ký tên A.20 LHÂn.

Xin cho tôi được phép nói dông nói dài như vậy để thưa với quý vị rằng như tôi đã nói trong một email trước đây khi chúng ta lo cho A.20 Hải Bầu là: “A.20 một ngày là là A.20 trong máu suốt đời, không bao giờ quên”, đâu có gì lạ khi chúng ta cùng chung lưng đấu cật để chu toàn cho một người anh em của chúng ta.

Chúng ta dùng trang nhà để nói lên tiếng nói của chúng ta, những chàng trai trẻ tuổi, gác bút nghiên theo việc đao cung, để dấn thân cứu nước và bảo vể Tổ Quốc. Bảy anh em “Anh Hùng A.20” còn đó, những ngưòi khác vào cùm ra khám còn đó, chứng minh tinh thần bất khuất của những chàng trai “coi nhẹ cuộc đời nhưng coi nặng lòng ái quốc và tình bạn”.

Chúng ta đã thua trên bàn cờ quốc tế, nhưng tâm huyết của chúng ta còn đó. Chúng ta không thua vì chúng ta dở, hèn nhát hay gì đó, mà chúng ta thua vì Washington muốn chúng ta thua. Và người ta muốn gỡ danh dự nên cho một số chúng ta qua đây, không phải vì thương chúng ta, nhưng vì không làm gì khác được.

Tôi xin đưa một lời nói cụ thể của tôi khi trả lời những người nói về cuộc chiến tại Việt Nam như sau:

Có nhiều người ngoại-quốc, phần đông là người Mỹ, để một phần bào-chữa cho chính-sách rút quân của họ vào đầu năm 1973, đã nói với chúng tôi rằng:

 “Cuộc chiến tại Việt-Nam là một cuộc chiến nội-bộ, một cuộc huynh-đệ tương-tàn lớn giữa người Việt-Nam các anh với nhau”.

Chúng tôi chua-chát nói với họ:

“Các ông lầm to rồi. Đó không phải là một cuộc nội-chiến. Đó không phải là một cuộc huynh-đệ tương-tàn. Đó là sự xâm-lăng của một quốc-gia này vào tới một quốc-gia khác kia. Đó là sự xâm-lăng của một Ý-THỨC-HỆ này vào một Ý-THỨC-HỆ khác kia. Quý-vị nói là chúng tôi là người Việt-Nam cả, và do đó chúng tôi là anh em mà lại chém giết lẫn nhau, tại sao quý-vị lại có thể đặt một vấn-đề như thế? Chúng tôi đã được phân chia rõ-rệt, qua hiệp-định Genève ngày 20 tháng 07 năm 1954, một bên là Quốc-Gia, một bên là Cộng-Sản, mang tên hai quốc-gia khác nhau, một bên là Việt-Nam Cộng-Hoà, một bên là Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà, hai quốc-gia có địa-giới, không-giới, hải-giới rõ-ràng cơ mà. Vậy mà chúng tiến-hành xâm-chiếm đất đai của chúng tôi. Nếu quý-vị cho rằng chúng tôi là người cùng một màu da, cùng một dân-tộc, mà lại chém giết lẫn nhau, quý-vị cho là nội-chiến, là huynh-đệ tương-tàn, quý-vị không thể tiếp-tục can-thiệp được, thì vậy quý-vị thử nhìn lại xem lịch-sử của chính đất nước quý-vị xem sao. Quý-vị có phải là người gốc Anh không? Quý-vị đánh lại nước Anh để có được hai chữ TỰ-DO, có đúng thế không? Quý-vị có nhận viện-trợ của nước Pháp không? Người Pháp với Tướng Lafayette có bỏ rơi quý-vị không? Thế thì cùng một công việc, cùng một hành-động, mà chỉ có hành-động đấu-tranh dành TỰ-DO của quý-vị là đúng, còn hành-động bảo-vệ TỰ-DO của đất nước chúng tôi là sai sao? Như vậy, người Anh đánh người Anh là đúng, còn người Việt đánh người Việt thì sai sao? Thế sao bây giờ quý-vị tiếp-tục giúp người Đại-Hàn? Người Nam-Hàn có khác với người Bắc-Hàn không? Thế sao sau cuộc thế-chiến thứ hai quý-vị lại giúp Tây-Đức không cho Đông-Đức lấn chiếm? Thế sao cho đến bây giờ quý-vị vẫn tiếp-tục giúp những người Cuba lưu-vong chống lại sự cầm quyền của Fidel Castro? Thế sao quý-vị tiếp-tục giúp những người Tầu ở Đài-Loan chống lại Trung-Cộng? Như vậy, người Anh đánh người Anh là đúng, người Đại-Hàn đánh người Đại-Hàn là đúng, người Đức đánh người Đức là đúng, người Cuba đánh người Cuba là đúng, người Tầu đánh người Tầu là đúng, chỉ có người Việt-Nam đánh người Việt-Nam là sai? Như vậy rõ-ràng quý-vị thiên-vị, chỉ làm những gì lợi cho quý-vị, chứ trên thực-tế quý-vị chẳng thương một ai cả, có đúng thế không nào? Một sự biện-minh, một sự nguỵ-biện con nít. Thật là mỉa-mai, thật là chuyện trò hề, có đúng không quý-vị?”

Lập trường của những người xuất thân từ A.20 thật vững chắc, ngoại trừ như tôi đã nói là có một số ít người phản thùng, chê bai người này, nói xấu người nọ, chụp mũ người kia, nhưng số này rất ít không đáng kể, cho ra rìa cũng còn được, và tôi xin hoan hô tinh thần tương thân tương trợ của những anh em A.20 có một không hai. Chúng ta ai cũng biết là khi chúng ta qua Mỹ, chỉ có hai bàn tay trắng và một giấc mơ là sớm ổn định để còn nghĩ đến việc quang phục quê hương khỏi ách thống trị của bọn nguỵ quyền cộng sản, qua súng đạn nếu có thế (mà chắc chắn không được vì nhìn thấy gương Tướng Vàng Pao) hoặc qua ngòi bút, và chúng ta đã tương đối thành công. Chưa một ai bị đói rách như anh em của chúng ta còn ở lại Việt Nam, ý tôi muốn nói đến những thương phế binh QLVNCH, chúng ta hằng có hằng ngày mấy bữa cơm, còn rủng rỉnh uống vài lon bia nữa, rồi bên cạnh còn có vợ hìền, con thảo nữa. Chẳng may khi người bạn đời của ta sớm ra đi, thì thứ nhất có thể do duyên nợ đã hết, và thứ nhì biết đâu do tu hành từ nhiều kiếp trước nên đã đến lúc đắc quả trên cõi Phật. Nhìn hình ảnh chị Hải nằm thư thản, tôi có cảm giác như chị đã đắc quả rồi, và chị đang hướng dẫn cho chúng ta tu hành để cũng đạt được kết quả như chị. Đối với Phật Tử, chỉ cần niệm lục tự “Nam Mô A Di Đà Phật” là chúng ta sẽ đạt được cứu cánh Niết Bàn. Chị Hải đã làm được, anh Hải sẽ làm được, và chúng ta sẽ làm được. Anh Hải không nên buồn mà phải hãnh diện là Chị đã đắc quả Tu Đà Hoàn.

Trong khi chờ đợi tôi xin nhắc lại mục đích của lá thư của tôi:

Chúng ta là A.20, là những chàng trai đã từng vào sinh ra tử cho lý tưởng của chúng ta, với bao nhiêu trận đánh, với những vết thương lớn nhỏ trên thân thể chúng ta hay ngay trong tâm hồn của chúng ta, nay là những cụ già ai cũng trên 6 bó, thậm chí 7, 8 bó, (như tôi đã là 71 rồi đó HuHuHu!!!) nhưng tinh thần của chúng ta vẫn mãi mãi trẻ trung, và chúng ta vẫn còn lý trí, ý chí, để mong một ngày nào đó thật sớm quang phục được quê hương, ngõ hầu cúu vớt dân tộc Việt Nam khỏi ách cộng sản, và xây dựng một nước Việt Nam hoàn toàn tự do, dân chủ, phú cường, dân giầu nước mạnh, đồng thời mang những nụ cười đến cho toàn bộ dân chúng Việt Nam cũng như cho anh em để an ủi nhau trong tuổi già, để khích lệ anh em trong những lúc hoạn nạn, cơ hàn, buồn bã.

Chúng ta không làm chính trị, nhưng chúng ta phải có thái độ chính trị. Không tham gia ngụy quyền VC, không hưởng ứng những gì VC nói và làm, và chỉ có hai nhiệm vụ chính: chống cộng và lo cho anh em A.20.

Tôi nghĩ là những gì tôi viết ra không đến nỗi trái tai quý vị trong A.20 cho lắm, tuy nhiên nếu tôi có động chạm đến vị nào thì xin niệm tình tha thứ cho tôi.

Việt Nam Cộng Hoà muôn năm,
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà muôn năm,
A.20 muôn năm,

A.20 Lê Hoàng Ân
5/3/2011




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét