A20
Tống Phước Hiến
Sau vụ “văn nghệ đột
xuất mừng xuân 78”, vì cai tù kết luận đó là hình thức của bạo loạn, nên
không khí trại giam Z.30.D tăng thêm ngột ngạt nặng nề. Tên Thượng úy Thới tức
Sáu La là cán bộ Trực trại cho thiết lập thêm những hàng rào nhằm cô lập, chia
cắt mỗi nhà tù một khu riêng biệt; biến mỗi nhà tù thành những cù lao bị vây bọc
ngăn cách. Vật liệu làm hàng rào mới này vẫn là những cây tre nguyên, rắn chắc,
đan theo hình mắt cáo và buộc kết bằng dây song (một loại mây rừng) rất “có chất lượng”. Giữa các hàng rào cô lập
mỗi nhà là con đường đi rộng chừng 4 mét. Con đường này cai tù và “tù thống trị”
tức bọn Thi đua, Trật tự dùng để đi tuần tiểu, quan sát. Tù chỉ được dùng để đi
lãnh cơm nước, tập họp. Nếu không có cai tù hay Trật tự, Thi đua đi kèm áp giải
thì mọi sự di chuyển của tù trên đường này dù bất cứ lý do gì cũng đều bị tuyệt
đối cấm, sẽ bị kết tội vi phạm nội quy trại giam và dĩ nhiên có thể bị bắn chết nếu cai tù muốn.
Ðể
“đảm bảo an toàn cho học viên” Sáu La
cho sơn vôi trắng quanh các vách từ đất lên đến cửa sổ mỗi nhà, và “quy định” tù khai bịnh được ở nhà trong
giờ lao động không được ra khỏi nhà. Tù ra ngoài “linh tinh” dễ dàng bị “phát
hiện” bởi màu sơn trắng quái ác kia.
Khi
hàng rào tre, và màu vôi trắng được thực hiện xong thì lòng dạ bọn đê hèn biến
thành hàng rào antenne, ráo riết tăng cường nghe ngóng hoạt động. Muốn liên lạc,
thông tin cho nhau tù phải đứng sát hàng rào, nhưng vì bị con đường làm cách
xa, nên tù phải tăng cường độ âm thanh lớn hơn chứ không còn rì rà rì rầm như hồi
trước.
Dù
tù bị thiệt hại khá nhiều như bị “cắt”
hoặc hạn chế số lượng quà thăm nuôi, không được viết hay nhận thư, hoặc phải bị
“đi làm việc”, kỷ luật..., thế nhưng
thói quen thích phiếm luận đã là căn bịnh “mãn tính bất trị” của tù. Do vì “mâu thuẫn quyền lợi” giữa tù và bọn Thi
đua Trật tự. Nên hai “thế lực” này nảy
sinh ra trận chiến chuyên về kỹ thuật như
“truyền tin, giải mã”.
Trận
chiến nầy hết sức “ác liệt”. Hai bên đều phải chơi lối “cận chiến”.
Tù “thứ thiệt” gọi tù phản bội là
“bù tọt”. Vô hình chung, hai bên chọn
cùng một chiến thuật nằm vùng, hay cài răng lược để tấn công nhau.
Tù “bù tọt” giả làm tù “phản động” (tức loại tù không bị kẻ thù
hèn hóa, từ đây, chữ tù là loại tù đáng được kính trọng này) để “nằm vùng”, xâm
nhập hầu thu nhận tin tức, giải mã các “ngụy ngữ, đặc lệnh truyền tin”, nhận diện
các dấu hiệu báo động, phòng thủ của tù “phản
động” rồi báo cáo chỉ điểm lập công, mong được bình bầu xuất sắc, nâng hạng
phần ăn; được viết, nhận thư, thăm nuôi nhiều lần và quà nhận được nặng hơn. Đối
bọn tù phản bội này thì mơ ước cao nhất của chúng là được cai tù cho phép hú
hí, thỏa mãn tình dục với vợ trong cái gọi là “nhà hạnh-phúc” vô cùng nhơ bẩn.
Tù
“phản động” giả ngu đánh lừa tù “bù tọt”,
để tìm hiểu chúng hầu có biện pháp hoặc vô hiệu hóa khả năng chúng hoặc nương
vào thói quen nghi ngờ của cai tù để đưa chúng vào kỷ luật. Tù khai dụng nhiều
tình huống để công khai tố cáo, công khai miệt thị, khinh tởm bằng ánh mắt, bằng
xa lánh tù phản bội và bằng... nước bọt. Tù báo động cho nhau, cùng nhau tỏ
thái độ khinh ghét khi chúng lê lết lại gần.
Có khi trong dịp may rất tình cờ; tù
nhận diện được mặt bọn bù tọt tức antenne từ trong đống phân do đội vệ sinh
chuyển phân từ hầm vệ sinh bọn cán bộ sang cho đội rau xanh. Trong lúc đổ nước hòa vào phân tưới cây, những tờ báo cáo của bọn
đê hèn antenne, nổi lều bều.
Cũng có khi tù đi đại tiện trong lùm
cây và vô tình gặp “hên” bắt quả tang bù tọt đang làm nhiệm vụ “bọ hung”.
Nhiều lúc cuốc cỏ, gánh nước quanh
dãy nhà của “vượn” (tức bọn cán bộ), tù nghe rõ mồn một tiếng báo cáo của bọn
vô lại và tiếng hạch sách hống hách của lũ vượn ban chỉ thị cho “ngợm” thi
hành.
Thời
gian này, tù bị gọi đi “làm việc”
liên miên, dồn dập. Ðã qua thời đọc biên bản trước khi bị nhốt vào phòng kỷ luật.
Bây giờ muốn nhốt là gọi tên rồi dẫn đi, bất kể trong nhà ở hay ngoài khu lao động.
Như thế kể cũng tiện, khỏi màu mè rắc rối! Lâu dần, không khí trại cũng giảm bớt
căng thẳng vì tù đã vượt qua được trạng thái hoang mang, giao động, sợ hãi, bất
cứ lúc nào họ cũng có cảm giác sẳn sàng vào kỷ luật.
Tình
trạng “khẩn trương” ấy, kéo theo hậu
quả việc “ca cống linh tinh” bị hạn
chế tối đa. Mỗi tuần, tù chỉ được “cải
thiện” vào khoảng một giờ vào trưa Chúa nhật. Trước kia, tù lao động xuất
trại được gánh nước về cho tù khai bịnh ở nhà tắm rửa. Hay được mang về một ít
rau dại như cải tàu bay, cải cúc hoang, lá khoai mì, rau dịu, rau sam, bất cứ
thứ rau gì tù ăn cũng được miễn là đừng đắng quá...Những thứ rau cỏ do trời trồng
ấy, tù dùng để “cải thiện hợp đồng” với
một nắm mì gói, mấy lát khoai mì thuộc khẩu phần chính thức. Nay tất cả đều bị
xem là vi phạm nội quy trầm trọng. Tù cũng bị gắt gao hạn chế, có khi bị cấm
mang theo ra khu lao động những thức ăn do thân nhân mang lên thăm nuôi, như mì
gói, đường, cơm, gạo... Nghĩa là tù hết được hưởng “chế độ tự túc bồi dưỡng”.
Nghe nói những biện pháp này là do
Ban Thi Đua đề nghị nhằm thắt chặc cái bao tử cho “chúng” (tiếng của tù Thi
đua, Trật Tự gọi tù bị thống trị) bớt “ăn no rửng mỡ”, và bọn “ ăn bám, trây lười lao động” (ý chỉ vào
tù bị thống trị) không có điều kiện “nhàn cư bất thiện” gây náo loạn, phá rối “nếp sống văn minh văn hóa trại, phá hoại
chính sách cải tạo”, cản trở sự an tâm học tập tiến bộ của các trại viên
khác. Ban Thi Đua còn giải thích thêm rằng, những biện pháp ấy chính là phương
cách ngăn chận, phá vỡ âm mưu trốn trại ngay khi mới manh nha của bọn phản động.
Ðồng thời, biện pháp nầy sẽ thúc đẩy cho bọn tù có thăm nuôi vì “quyền lợi”
quay ra tố cáo tù phản động để được tin tưởng. Ðể những đề nghị của chúng được
“bọn chủ” cứu xét chấp thuận, tù phản bội khôn khéo “vận dụng lý luận hiện thực chủ nghĩa” theo kiểu “đắp chăn biết rận”
hay “đèn ai nấy sáng, nhà ai nấy biết” để rắp tâm cam phận làm con chó canh chừng
và sủa tố cáo .
Ban
Thi Đua Trật Tự “trình lên trên” rằng:
Theo chúng nhận xét thì bọn chống đối thường là bọn tuổi còn trẻ, và loại “con bà Phước”. Muốn vô hiệu hóa, triệt
tiêu hoạt động của tù phản động, thì bọn thống trị bao gồm bọn cán bộ trại giam đến những tên
làm tay sai cho giặc như (tức bọn cai tù và bọn thi đua trật tự) đã phải tận dụng
tin tức từ những “trại viên tiến bộ”
(tức bọn antene). Nhưng thời gian qua, đã chứng minh rằng biện pháp nhốt kỷ luật
không còn có hiệu năng, đe dọa hay trừng phạt nữa, nghĩa là không có “nhằm nhò “ gì với tù, việc vô ra kỷ luật đối
với họ như bắt cóc bỏ đĩa. Vậy muốn làm
cho tù phải bị “ná thở” (mệt mỏi, khổ cực,
nhọc nhằn, nặng nê), cai tù phải tìm cách làm cho nội bộ tù nhào xáo nhau bằng cách gây khó dể, hạn chề số
lần thăm nuôi, số lượng quà thăm nuôi cũng như thời gian gặp thân nhân. Nghĩa
là phải khai thác hoàn cảnh giửa tù được thăm nuôi và tù “con bà phước” làm gia
tăng suy nghĩ và tâm lý của hai loại tù nầy và tạo điều kiện cho những ganh tỵ,
hiềm khích, nghi ngờ, khi ghét lẫn nhau bùng nổ.
Những
đề nghị của bọn Thi Đua, Trật tự với mục đích hãm hại tù được quan thầy chúng
nhanh chóng chấp thuận. Lợi dụng thời cơ, bọn bất lương, lưu manh nầy tìm
cách áp đặt các biện pháp rừng rú ngỏ hầu
chúng trhu75c hiện được khẩu hiệu: “cướp
nhanh, cướp mạnh, cướp vững chắc “ cho xứng danh là “học trò của Lenine vĩ đại”.
“Sách
lược rừng rú” đó rất đơn giản. Ấy là, quà thân nhân mang theo bao nhiêu, tù được
khiêng vác vào bấy nhiêu, nếu khiêng vác không nổi thì trật tự “thông cảm” phụ
khiêng hoặc trại cho mượn xe “cải tiến”,
loại xe đội vệ sinh dùng để chuyên chở “phân bắc” (loại phân tươi do bộ máy tiêu
hóa của người sản xuất và tống khứ ra). Khi đến khu vực kiểm soát đồ thăm nuôi
trước khi nhập trại thì tình thế đổi khác. Sự “hồ hởi phấn khởi” đang từ tù được thăm nuôi nhanh chóng chuyển sang
cho bọn trật tự. Tù trật tự cũng tự thấy cần chấm dứt ngay mọi sự “cảm thông” để khoát lên “trách nhiệm trên giao”.
Mưu
mô xảo trá, của bọn cán bộ phụ trách thăm nuôi lẫn bọn nô tài trật tự tay sai
thủ đắc nhiệm vụ “khuyển ưng” cũng gặp nhau tại cuối đường hèn mọn là “trấn lột”
cướp đoạt thực phẩm thăm nuôi của tù. Ðịa
điểm kiểm soát đồ thăm nuôi là căn phòng có kê bàn nhỏ, một cái bao lớn hoặc cần
xé bự hay cái thùng phuy.
Cai
tù đứng bên ngoài nhìn vào, lâu lâu liếc mắt “trông chừng” xem có “sự cố “ gì cần phải can thiệp giải quyết
hay không. Qua tín hiệu của tù trật tự, thi đua; cai tù “triển khai” óc thông minh loài vượn của chúng để hoặc nhanh chóng hoặc “chậm lụt” giả lờ ám
hiệu cho “chìm xuồng”. Tùy thuộc vào hôm “cao điểm”, tức có nhiều “trại viên”
được thăm nuôi để cai tù cho phép Ban Thi Đua tăng cường thêm nhân sự cho bọn
Trật Tự. Thường thì bọn trật-tự, thi đua được rộng quyền giải quyết, - vì đó là
nội bộ của tù! Những quyết định của tù thống trị căn cứ vào “giai cấp kinh tế”
của “con mồi” có máu mặt hay không. Quà thăm nuôi của mỗi người tù, bọn thi đua
trật tự biết rõ vanh vách.
Tất
cả quà thăm nuôi đều phải lấy ra, bày hết trên bàn. Tù trật tự, Thi đua đích
thân dùng tay, mắt, mũi, có khi cả miệng – nghĩa là tận dụng các giác quan, để
kiễm soát. Hàng nào được “qua ải” thì chuyển về phía cuối bàn, tù bỏ vào bao
thăm nuôi. Qua được “hàng rào siêu quan thuế” hầu hết là các chất bột, nước mắm
khô, muối, đường, các loại đậu, thuốc hút, áo quần, giấy viết, sách vở, bàn chải
đánh răng, thuốc bịnh loại thông thường, đồ ăn đã nấu chín. Hàng phải bị chận bớt
hoặc tịch thu hay trại giữ giùm và sẽ “trả lại” khi có nhu cầu vì thi hành “lịnh trên” là thuốc trụ sinh, mì ăn liền,
thịt hay cá chà bông, thuốc điếu, đồ dùng có “nhãn hiệu nước ngoài” nhất là của Mỹ hoặc các nước thuộc
“khối tư bản phản động”. Loại hàng nầy phải chờ xin chỉ thị cán bộ. Bị tịch
thu một phần hay toàn bộ hoặc bị nghiêm cấm hưởng dụng đều bị tùy theo “giá trị phẩm chất”, căn cứ vào mẫu mã
bao bì, tên nơi hoặc nước sản xuất hoặc bằng sự
“nhạy cảm của trực giác ” hoặc
do sự “lượng giá của giới chức có thẩm quyền”. Ðồ vật thăm nuôi ít khi bị
trại tuyên bố tịch thâu. Chúng cho hay chỉ tạm giử để “điều nghiên”. Ban đầu chúng cũng màu mè lập biên bản, nhưng sau vì
quá “vất vả” với chữ nghĩa, nên chúng đành “cách
mạng hành chánh thủ tục” bằng cách… thông báo miệng.
Ðồ thăm nuôi do mồ hôi nước mắt có khi bằng máu thân nhân
tù. Do vì thương yêu họ đã nhẫn nhịn những khát thèm, chịu đựng thiếu đói,
giành dụm, cất dấu trong thời gian khá dài. Họ phải xin phép, chìu lòn hối lộ,
cắn răng chịu đau nhục với bọn “đầy tớ dân” tức công an địa phương mới có tấm
giấy di chuyển và thăm nuôi. Họ phải chầu chực đợi chờ khổ sở mới đón được xe để
vượt qua hàng trăm, có khi hàng ngàn cây số ngàn, rồi họ lại phải mang xách,
khuân vác, lê lết hàng chục cây số đường
đèo núi, sông suối cheo leo hoang vắng. Họ phải ngủ bụi, ăn đường chờ chực nhọc
nhằn mới đến được đây. Tất cả đồ ăn, vật dụng dùng làm quà thăm nuôi chuyên chở
vào đó biết bao nhung nhớ, yêu thương, trìu mến và mong cầu. Nhưng những nghĩa
tình đáng trân trọng ấy đều bị bọn tù trật tự, thi đua - những người mà trước
kia là cấp chỉ huy, là thuộc cấp, là chiến hữu của tù cướp đoạt và xúc phạm. Loại
phản bội này hoàn toàn không còn có bất cứ điều gì để tạm chứng minh chúng còn
là con người, chúng không còn là người nữa, chúng là hoang thú giả Người - dựa
vào thế lực kẻ thù để cướp đoạt tài sản chuyên chở tình cảm lẫn sự sống của đồng
loại, đồng bào, dồng đội và đồng cảnh.
Ngoài biện pháp đổ thừa cho có vẻ hợp
pháp hoặc bán hợp pháp, bọn thi đua trật tự còn trắng trợn cướp đoạt những thức
ăn có thể để lâu và dể ăn như nắm ruốc, thịt hay cá chà bông, thịt rim hoặc kho
mặn... chúng trút ra thau, soong, nồi. Vật đựng thức ăn nguyên trước như chai,
keo, soong, nồi chúng vất liệng thật xa. Chúng đổ nước vào, khuấy lên để gọi là
tìm “tài liệu phản động”. Nếu không
phát hiện nghi ngờ, chúng bảo tù trút vào như cũ; nhưng những đồ chứa đựng đã
“tung cách chim tìm về chổ kín” rồi, tìm đâu ra!? Tù sợ ở lại lâu “sinh chuyện”
nên dù có luyến tiếc cách mấy cũng đành “ngậm ngùi”ca khúc biệt ly về lại nhà
tù. Nơi ấy, các chiến hữu đang... nhiệt tình mong chờ!
Cuối ngày thăm nuôi, tù Trật tự, Thi đua thu dọn “chiến trường”
dưới sự giám sát của cai tù đặc trách thăm nuôi và cai tù trực trại. Bọn phản bội
chuyên nghiệp và chuyên nghề “săn đón mồi chài” biết ý thích của chủ, chúng
chia phần cho từng tên. Vì là “lộc của rơi” nên bọn cai tù thường không có ý kiến
và “an tâm tin tưởng” vào bọn lâu la
thủ hạ. Ngoài một số quà do lén lút ăn chận được, còn thì hoặc do bọn thi đua trật tự xin hay cai tù tự ý thí cho, tất
cả được chúng bỏ bao mang về “chuồng” và dĩ nhiên không quên khệ nệ gồng gánh
thêm những soong nồi thau chậu mà chúng nhẫn tâm cướp đoạt của tù bằng cách đổ
nước vào.
Trận chiến vẫn còn tiếp diển, dù lực lượng hai bên không
cân sức, nhưng người tù đã nhận được vị trí của mình, đó là vị trí Người Lính
trên mặt trận. Bởi vậy Người Tù sẽ phải phản công, dù hậu quả như thế nào, Người
tù cũng phải phản công. Phản công muôn đời vẫn là phương thế biểu thị lòng tự
trọng, biểu thị ý thức và trách nhiệm của Người Lính Chiến .
A20 Tống Phước Hiến
Trích từ : "Khi vượn tấn công Người"
1/ Những chữ in nghiêng là
ngôn ngữ của Việt cộng thường dùng.
2/ Những chữ bỏ trong ngoặc kép “ .....” là ngôn ngữ thường
dùng của tù lúc bấy giờ.
3/ Phân bắc là phân người còn mới, chưa kịp bị phân hủy-
Danh từ nay chỉ có
sau khi đất-nước bị Việt cộng cưỡng chiếm và thống trị.
4/ Vượn là từ ngữ ám chỉ bọn Việt cộng, vì chúng tin rằng
con vượn chính là thủy tổ của lòai người.
5/ Ngợm là từ ngữ để ám chỉ bọn tù phản bội như bọn trật tự,
thi đua, antenna.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét