A20 Chế-Văn-Thức
Lời nói đầu: Khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) non
trẻ của Miền Nam Việt Nam bị sụp đổ bởi sự phản bội của nước bạn đồng minh.
Quân cộng miền Bắc tiến chiếm Miền Nam, trên thế giới đã có một nhận định cho rằng:
sẽ có cuộc tắm máu xảy ra.
Nhưng không, rút
kinh nghiệm của các nước cộng sản anh em và của chính Cộng Sản Việt Nam (CSVN)
qua những lần tắm máu, sau khi cướp được chính quyền, bị thế giới lên án nặng nề.
Lần này, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, CSVN không áp dụng thủ đoạn tắm máu mà
thi hành chính sách KHÔ MÁU! Đối với Quân Dân Cán Chính VNCH.
Bài viết sau
đây, tôi kể lại một chuyện thật, không hư cấu, một trong trăm ngàn sự thật về
chính sách đối xử tàn độc của chế độ CSVN với nhân dân Miền Nam Việt Nam! Đề
tài khô khan, mong người đọc thông cảm.
Phản Kháng Của
Tù Cải Tạo Trong Đêm Noel 1978.
Sau
ba năm lao động khổ sai trên vùng rừng núi cao nguyên Lambiang (Lâm Viên) cuối
dãy Trường Sơn. Những sĩ quan QLVNCH, người tù chính trị không án, được ngụy
trang dưới mỹ từ “cải tạo”, do các đơn vị bộ đội quản lý từ sau ngày 30 tháng
Tư năm 1975. Nay vì nhu cầu cuộc chiến xâm chiếm nước láng giềng Cambodia vào
cuối năm 1978, bộ đội đã chuyễn chúng tôi trở về trại Suối Máu, Biên Hòa, giao
qua ngành công an quản lý.
Tùy
tình thân giữa bạn tù với nhau, trong các ngày lễ lớn của bất cứ tôn giáo nào,
hay những ngày lễ Quốc Gia, ngày tết Dương Lịch, tết Nguyên Đán, chúng tôi từng
nhóm tụ năm tụ bảy hàn huyên tâm sự. Chiều hôm 24 tháng 12 năm 1978, từng nhóm
bạn gom góp mỗi người một ít đường, gạo nếp, đốt lửa đó đây dọc theo hè nhà, nấu
chè lạc để có bửa ăn chung đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Trên vọng gác, công
an trông thấy dấu hiệu lạ trong các khu giam tù từ K1, đên các khu K2, K3. Khoảng
7 giờ tối, từng toán công an võ trang vào bên trong tuần tra, hỏi chúng tôi
chuyện gì mà tụ tập, chúng tôi giải thích. Toán tuần tra rảo quanh một vòng rồi
trở ra ngoài.
Đến
8 giờ tối, hầu hết các K vang lên tiếng cười cùng tiếng vỗ tay. Khu K1 nơi giam
tù sĩ quan cấp Thiếu và Trung úy, tuổi chừng 20 đến 30 rất trẻ, còn tràn đầy
sinh khí, ồn ào náo động nhất, họ hát Thánh ca, tình ca với những chiếc đàn
guitar tự chế.
Các
toán công an võ trang trở vào, ra lệnh “cải tạo viên”giải tán vào bên trong
láng (nhà). Chưa đến 10 giờ đêm, giờ ngủ theo quy định của trại, họ cưỡng lệnh
không chịu vào. Có tiếng súng nổ, công an võ trang bắt đi ba người tù đem ra
ngoài khu giam.
Lập
tức, toàn thể tù nhân khu K1 gọi nhau tập trung ở sân trước đối diện với cửa ra
vào Ban giám thị trại. Họ dùng tay làm loa che miệng, đồng thanh kêu gọi Giám
thị trại thả người trở vào, cũng hướng về các khu K2 giam tù cấp Tá, khu K3 cấp
Đại úy để thông báo tình hình và xin tiếp tay yểm trợ, bằng cách tất cả tù nhân
ra khỏi láng, làm theo những gì bạn tù K1 yêu cầu với Giám thị trại.
Bên
ngoài, Giám thị trại vẫn im lìm, bên trong âm thanh hò reo của tù nhân vang dội
toàn khu trại tù Suối Máu. Ngay lúc này, tại K2 các bạn tù cấp Tá, nhanh chóng
thành lập Ủy Ban Hành Động (UBHĐ). Thiếu tá Không Quân Lê Thanh Hồng Vân vóc người to cao, làm Trưởng UBHĐ (hiện nay anh
đang định cư tại Florida). Thiếu tá Pháo binh Lê Văn Sanh làm Phó Trưởng Ban (nay anh định cư tại Texas) và nhiều
thành viên cho từng bộ phận, như bộ phận Hành Động, bộ phận An Ninh, bộ phận Kế
Hoạch. Một số thành viên trong UBHĐ chui hàng rào kẻm gai, sang K1 hổ trợ và
bàn kế hoạch. Hàng rào kẽm gai ngăn giữa các K trước đấy rất kiên cố, nhưng sau
ba năm do bộ đội quản lý, cán binh bộ đội nhổ bớt cọc sắt ấp chiến lược và tháo
lấy kẽm gai để làm việc riêng tư, nên nay hàng rào thưa trống, người chui qua lại
rất dễ dàng.
Đã
giữa khuya, Giám thị trại vẫn không động tỉnh. Bước đầu UBHĐ kêu gọi nhau hát
các bản Thánh ca, trong đó bản HANG BELEM :
Ðêm đông lạnh lẽo
Chúa sinh ra đời
Chúa sinh ra đời
nằm trong hang đá nơi máng lừa.
Trong hang
Bê-lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng . . .
là
bản nhạc dễ hát nhất, hầu như ai cũng hát được, không phân biệt tôn giáo, các bạn
tù Ki Tô Hữu hát lớn mọi người cùng hát theo, lặp đi lặp lại liên hồi, chen lẫn
với tiếng vổ tay, tiếng kêu gọi thả tù. Trời về khuya tỉnh mịch, âm thanh vang
dội đến tận vùng dân cư nhà thờ Hố Nai, Biên Hòa.
Có
tiếng động cộc cạch từ những loa phóng thanh đặt sẳn trong các K giam tù, để
Giám thị trại thông báo chỉ thị, mở đài (radio) phát thanh Hà Nội, đài Saigòn
giải phóng cho tù nhân nghe tin tức vào mỗi sáng sớm và chiều tối. Giám thị trại
lên tiếng:
"Yêu
cầu tất cả “trại viên cải tạo” trong các K giải tán trở vào láng để ngủ, sau đó
Ban giám thị sẽ cho ba trại viên trở vào."
Không
ai bảo ai mọi người đồng loạt trả lời:
“Phải
thả người vào trước đã”.
Hai
bên, lời qua tiếng lại giằng co mãi, lồng trong tiếng hát Thánh ca mỗi lúc một
vang dội hơn, mặc dù đêm đông giá lạnh nhưng mọi người vẫn kiên trì ngồi dưới
sương khuya.
Từ
xa vọng lại tiếng động cơ nổ rầm rì, rồi dần dần nghe rõ tiếng xích sắt của xe
tăng nghiền trên mặt đường nhựa, từ hướng nhà thờ Hố Nai tiến về trại tù Suối
Máu. Bọn cai tù lượng định tình thế, kéo dài thời gian xin chỉ thị cấp trên, điều
động xe tăng đến mặt trước của trại tù để thị oai. Không nao núng, UBHĐ đưa ra
quyết định, gọi lớn ra bên ngoài:
“Nếu
ban giám thị trại không thả người vào, đêm nay tất cả trại viên cải tạo sẽ
không vào ngủ”.
Tiếng
gầm gừ của máy nổ, tiếng xích sắt của tăng nghiền trên mặt đường mỗi lúc nghe
ác liệt hơn, rồi từng loạt đại liên trên tăng thay nhau nổ dòn, đạn hú xé không
gian, xẹt ánh lửa vèo vèo ngang qua các nóc nhà trại giam.
Trước
tình huống đã cởi lưng cọp không thể lùi, UBHĐ họp bàn quyết định, thông báo
cho Giám thị trại:
“Ngày
mai toàn thể trại viên cải tạo sẽ TUYỆT THỰC nếu trại không thả người vào”.
Đồng
thời loan báo đến các K:
“Yêu
cầu tất cả các toán anh nuôi, sáng ngày mai KHÔNG ĐƯỢC RA BỘ CHỈ HUY LÃNH GẠO
VÀ THỰC PHẨM, cho đến khi Ban giám thị trại thả người vào”.
Tiếng
hát Thánh ca tiếng vỗ tay, tiếng gọi thả tù vẫn tiếp tục vang vang trong đêm
khuya. UBHĐ kêu gọi các bạn tù lớn tuổi vào láng để nghĩ trước, nhưng không một
ai chịu rời chỗ. Biện pháp TUYỆT THỰC của tù nhân là sự việc bất ngờ đối với
Giám thị trại. Phần chủ động của quyết định này thuộc về phía tù nhân. Không một
toán anh nuôi nào có thể cưỡng lại, không chấp hành, nếu họ muốn sống còn.
Thấy
tình thế không thuyết phục được đám tù nhân nếu không thả tù.
Giám
thị trại Bằng lên tiếng yêu cầu toàn thể trại viên cải tạo giải tán vào ngủ. Ba
trại viên sẽ trở vào khi làm xong kiểm điểm trong một thời gian ngắn.
Cùng
lúc ấy tiếng máy nổ của xe tăng xa dần khu trại tù Suối Máu.
Khuya
lắm rồi, tù nhân vẫn ngồi hát Thánh ca. Bổng có tiếng dây xích sắt lỏn còn va
chạm vào trụ cổng K1, cửa mở ba bạn tù bước vào bên trong. Tiêng hoan hô, reo
hò gọi tên ba bạn tù. UBHĐ thông báo đến mọi người trở vào láng và bỏ lệnh tuyệt
thực, để ngày mai các toán anh nuôi tiếp tục làm nhiệm vụ cơm nước.
ĐƯỜNG
VÀO ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Noel,
24 tháng 12 năm 1978, đã là ngày 25 tháng 11 năm Mậu Ngọ, chỉ còn đúng một
tháng đến tết Kỷ Mùi 1979. Thời gian này, nước lớn đàn anh Trung Cộng dạy cho bọn
đàn em CSVN một bài học ở địa đầu giới tuyến. Không khí trong trại tù sôi sục về
thời sự nghe được qua loa phóng thanh của trại.
Sau
đêm tù cải tạo phản kháng, chúng tôi nghĩ sẽ có sự trừng phạt đến với một số
người. Nhưng không, Giám thị trại, những con cáo già không biểu lộ một thái độ
hằn học nào. Ngược lại cục trại giam đưa cán bộ tuyên huấn đến trại nói chuyện
về tình hình biên giới Việt Trung, tuyên truyền, đề cao bộ đội cộng sản ở tuyến
đầu chống trả quân bành trướng Trung Quốc v.v…
Giám
thị trưởng trại tỏ ra thân thiện vui vẻ, liên tiếp vào trại tập họp “trại viên
cải tạo” nói chuyện về chánh sách cải tạo khoan hồng của đảng, nhà nước và nhân
dân . . . Ngoài ra, giám thị trại bàn đến ngày tết truyền thống, tết Kỷ Mùi, đề
ra kế hoạch thi đua, mừng đón Xuân. Mục đích đánh lạc hướng kế hoạch đòn thù mà
chúng sẽ áp dụng.
Sau
những ngày tết Kỷ Mùi, đầu tháng 2-1979, bữa cơm chiều vừa xong, tù nhân cấp Tá
ở K2 chúng tôi, có lệnh tập trung lên hội trường làm việc. Lệnh tập họp bất thường
vào chiều tối, mọi người đã đoán có điều bất thường sẽ đến. Quanh hội trường
công an võ trang canh gác. Trên bục, giám thị trưởng đọc “lệnh chuyển trại”.
Trong
đời người tù cải tạo, chuyển trại là cả một cực hình, một nỗi kinh hoàng không
kể xiết. Danh sách đen, hơn 350 tù cấp Thiếu, Trung và Đại tá chúng tôi, lần lược
được gọi tên, tách riêng, ra sân xếp thành từng đội 30 người. Lệnh cho chúng
tôi trở về láng thu xếp tù trang rồi đi ngủ.
Khi
có lệnh tất cả tập họp lên sân trại. Chúng tôi được phát một khúc bánh mì bột
bo bo kẹp chút thịt heo mỡ. Đúng 4 giờ sáng tiếng ì ầm của đoàn xe Molotova tiến
vào trước cổng trại.
Đoàn
xe tù lên đường còn trong đếm tối, mãi đến lúc bình minh ló dạng, chúng tôi mới
biết đoàn xe đang chạy trên Quốc lộ I, đi về hướng Bắc. Mỗi xe tù có một công
an võ trang đi theo, nhưng họ ngôi cùng tài xế ở trước xe, do vậy ở phía sau
chúng tôi bàn tán với nhau, đoán già đoán non đủ thứ. Đến trưa đoàn xe tù vào
thành phố Phan Rang, đoàn xe ngừng lại ở đầu thành phố. Tài xế vào phố ăn trưa,
mỗi chúng tôi cầm khúc bánh mì bo bo ngao ngán.
Người
bán hàng rong trong phố, thấy có đoàn xe vừa dừng ở bên ngoài, họ kéo nhau chạy
ra, phụ nữ già trẻ có, các cháu nam nữ tuổi rất nhỏ, quần áo bạc màu, rạn rách.
Trên tay mỗi người một cái mẹt, một chiếc rổ rá đựng ít củ khoai lang, củ mì (sắn)
luộc, mớ trái cây, các loại bánh gói lá chuối. Ra đến nơi, ban đầu họ không biết
xe chở khách gì, họ chạy ùa đến rao bán mớ hàng trên tay. Có sự đồng ý của công
an võ trang, một số anh em tù chúng tôi đứng lên trong xe, chìa tiền mua thức
ăn. Bất chợt một phụ nữ lớn tuổi trong nhóm, nhìn thấy chữ CẢI TẠO thật to, dấu
đóng trên lưng áo, trên quần tù nhân. Bà ta la lớn lên gần như gào thét:
“Các
chú CẢI TẠO tụi bay ơi, các chú cải tạo tụi bay ơi, đưa lên cho các chú đi đừng
lấy tiền của các chú, đưa lẹ lên ”.
Cả
nhóm nghe theo lời bà. Chúng tôi cầm tiền, cúi gập người xuống năn nỉ các cháu
nhỏ lấy tiền, nhưng chúng lắt đầu lia lịa, chúng chia nhau chạy khắp đoàn xe
tù, ném đồ ăn lên xe. Một vài cháu lớn tuổi khỏe hơn, chạy thật nhanh vào trong
phố gọi thêm các bạn mang hàng ra cho, ra đến nơi đoàn xe tù đã nổ máy chuyển
đi, họ ném theo lên xe tù những gì họ có trên rổ rá và đứng nhìn theo cho đến
khi đoàn xe khuất xa – Mắt tôi cay cay nhỏ lệ, không phải chỉ lúc đó mà chính
lúc này, tôi đang kể lại ký ức khó quên trong đời tù cải tạo, sau 30 tháng
Tư-1975 – Xin nói rõ, trong giai đoạn đầu vào trại tù, bộ đội quản lý, không
thu giữ tiền bạc và đồng hồ, nhẩn vàng.
Đoàn
xe tù tiếp tục lăn bánh về hướng bắc Quốc lộ I, chúng tôi không đoán được sẽ đi
về đâu. Khoảng 4 giờ chiều đoàn xe qua cầu đập Đồng Cam, rồi qua khỏi thị xã
Tuy Hòa, Phú Yên đến quận Tuy An, đoàn xe rẽ trái, băng qua thiết lộ hỏa xa, dẫn
vào quận Đồng Xuân. Lúc này tôi nhận ra địa danh vì tôi đã từng hành quân trên
Khu 22 Chiến Thuật này gồm ba tỉnh: Bình Định, Phú Yên và Phú Bổn.
Trồi
lên hụp xuống trên một độc đạo tung bụi đỏ mịt mù, đoàn xe mang chúng tôi vào một
thung lũng rọ heo xa hun hút, dưới khí trời vàng vàng mờ ảo trong ánh nắng chiều.
Đoàn xe dừng lại trước cổng một trại giam, tứ bề vòng rào lưới B40 và kẽm gai
kiên cố. Trại cải tạo XUÂN PHƯỚC quận Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, trại tù mang bí số
A20. Những trại tù có mang bí số, trực thuộc Cục Quản Lý Trại Giam Trung Ương
điều hành, là những trại tù nổi tiếng khắc nghiệt đối với tù nhân
CẢNH
ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Trước
khi vào đến trại giam A20, đoàn xe vượt qua một đoạn đường, bên phải là sườn đồi
đất đỏ sỏi đá, bên trái là một cánh đông đất sét với những thửa rộng lúa cháy
vàng bởi nắng hạn. Một cảnh tượng hải hung, thoạt đầu chúng tôi không ai hiểu nổi
là hình ảnh gì, mặc dù chúng tôi cũng trong thân phận người tù!
Trên
những thửa ruộng khô, đất đai nứt nẻ, lố nhố những toán người không áo không mũ
nón, vỏn vẹn chỉ chiếc quần cụt, để lộ đôi ống xương chân khẳng khiu, thân hình
da bọc xương với chiếc đầu lâu sậm màu! Hình ảnh ma quái này, ngày nay nếu sống
ở Mỹ chúng ta có thể tưởng tượng được. Vào dịp lễ Halloween 31 tháng 10 mỗi
năm, trong các của tiệm bán đồ trang trí lễ ma, chưng bày những bộ xương người,
đầu lâu trắng hếu, trông ghê rợn, thì cảnh tượng trên cánh đồng khô, người tù
đang lao động giống y chang như vậy. Ở đây những bộ xương ma quái kia biết cử động,
đôi tay xương xẩu, nặng nề mệt nhọc nâng cây cuốc đưa lên thả xuống, đang đào xới
thửa ruộng đất khô cằn chai cứng!
Trước
cổng trại, chúng tôi được lùa xuống sắp hàng trên một sân gạch rộng lớn. Trời
đã chiều, từ nhiều hướng các đội tù lao động lần lượt kéo về, sắp hàng chờ khám
xét nhập trại. Chúng tôi sửng sờ, tận mắt nhìn rõ những bộ áo quần tù, xám tro
bạc màu, rách tả tơi, bay phất phơ trên những bộ xương với có chiếc đầu lâu mà
chúng tôi đã nhìn thấy trên cánh đồng trước đó. Những người tù đã cởi bỏ áo quần
để không cho thấm ướt mồ hôi, hầu giữ ấm được thân thể khi về trại.
Thành
phần tù gì? Họ là ai? Họ là tù hình sự. Phần lớn là con cháu của quân nhân,
công chức VNCH. Tuổi chừng 15 đến 30, vào tù cải tạo vì không chịu thi hành
nghĩa vụ quân sự, không muốn đem thân bỏ mạng nơi chiến trường Cambodia. Không
thi hành nghĩa vụ lao động, theo chính sách cưỡng bức lao động cá nhân, hay buộc
phải đi lao động thay thế cho thân nhân già yếu trong gia đình. Công tác lao động
thường là công trình thủy lợi, đào kênh dẫn nước, vào núi chẻ đá, khuân vác đất
đá, đốn gỗ, xây đập ngăn nước. Một thành phần nữa, là con cháu các gia đình “ngụy
quân, ngụy quyền và ngụy dân” bị chính quyền địa phương đẩy đi vùng “kinh tế mới”,
cuộc sống thiếu thốn quá khổ, bỏ trốn về các thành phố, mua lén bán chui, kiếm
sống, giúp đỡ mẹ, anh em, trong khi ông, cha đang trong tù cải tạo! Chỉ có dưới
chế độ cộng sản, mới có chuyện ba thế hệ gặp nhau trong nhà TÙ!
Chúng
tôi tù chính trị, được nhốt chung với tù hình sự trong trại giam Xuân Phước,
nhưng ở riêng một khu, cách nhau một sân rộng và nhà hội trường. Trại cấm chúng
tôi “liên hệ” với tù hình sự, nhưng rồi đó đây chúng tôi cũng tiếp xúc được.
Dãy
nhà tôi ở mang số 8, gọi là láng 8, dài chừng 50 met, nơi tôi ở, sát cạnh một
“trạm xá”, ngôi nhà nhỏ diện tích độ 10 x 5 mét, mái tranh vách đất, chỉ một cửa
nhỏ ra vào . Nói là trạm xá nhưng nhiều ngày, chẳng thấy y tá hay y sĩ vãng
lai, cũng không thấy khám bệnh. Thì ra nơi đó, các cháu bị bệnh lao phổi đến thời
kỳ quá nặng, cán bộ trại đưa vào cách ly, nằm chờ chết. Tiếng ho sùng sục bên
trong liên hồi vọng ra.
Những
cháu còn chút sức, lê thân ra ngoài hóng nắng, mở nút áo để lộ thân hình da bọc
xương, đầu trọc không còn chút tóc, người co quắp, thở hỗn hễn, đứt đoạn từng
hơi! Dãy nhà 8 nằm cuối cùng, sát hàng rào trại, nên họ ngăn một đoạn ngay đầu
nhà, chừng 5 mét làm thành một phòng nhỏ, phòng xác! Do vậy, bọn tù ở láng 8
chúng tôi, nhìn qua khe cửa, mỗi ngày chứng kiến ít nhất có từ 2 đến 3 xác chết,
quấn bằng manh chiếu hay mền. Trên đầu chiếc giường tre, ngọn đèn dầu leo lắc,
một chén cơm có cắm đôi đủa. Họ đưa xác vào đó ban đêm sau 7 giờ tối, khi chúng
tôi đã vào bên trong láng ngủ và cửa khóa chặt. Ngày hôm sau, lúc chúng tôi xuất
trại đi lao động bên ngoài, cán bộ trại cho đội tù hình sự, có tên Đội Tự Giác,
dùng xe cải tiến, loại xe thùng có 2 bánh sắt, chở xác chết ra chôn ở một ven rừng
đất đỏ, nghĩa địa của trại.
Những
lần đi lao động ngang qua đây, chúng tôi đã thấy nhiều nấm mộ lắm rồi.
Tù
cải tạo thuộc diện tù chính trị như chúng tôi, thời kỳ do bộ đội quản lý, mặc
dù lao động khổ sai trong vùng rừng núi Trường Sơn, nhưng khi làm lao động có
thể đi lại đó đây, tìm kiếm rau lá, bẩy chuột, bắt rắn cóc nhái . . . cải thiện
bửa ăn, phụ thêm mớ thực phẫm, do vợ con thân nhân, cực khổ gồng gánh, vượt vạn
dặm thăm nuôi. Thân xác chúng tôi cũng đã kiệt quệ, nhưng chưa đến nổi nào.
Đến
lúc vào tay ngành công an quản lý, tại trại tù A20 này, quy chế đời sống chúng
tôi không khác gì so với các cháu tù hình sự. Phần ăn mỗi bửa đều giống nhau. Nấu
bếp làm cơm do tù hình sự phụ trách. Bữa ăn sáng trước giờ đi đồng lao động, mỗi
phần ăn độ 4, 5 lát “sâm”. gọi là sâm cho vui, cũng để đánh lừa cái miệng, thực
ra nó là những lát mì (củ sắn).
Mì
do tù nhân trồng trọt, đến mùa thu hoach (bới lấy củ), cán bộ trại bắt tù nhân
ngồi giữa đồi trọc, mỗi người một khúc gỗ, một con dao lớn, chặt củ sắn thành
nhiều lát, có bề dày bằng nữa đầu lóng tay, những lát mì tung ra phơi nắng ngay
tại chỗ, trên nền đất cát đỏ, qua nhiều ngày đêm, bất kể nắng mưa sương gió,
cát bụi bám đầy. Đến lúc lát mì khô đã đổi sang màu sậm, được đưa vào các kho
chứa, bao bọc bởi những mành tre thưa mỏng, không đủ sức che mưa gió. Những lát
mì đóng lại thành cục, lên men trắng, men vàng rồi men đỏ, lát mì không còn lên
men được nữa, trở thành những lát Sâm Cao Ly màu đen lánh!
Phần
cơm trưa và cơm chiều giống nhau. Chén cơm chỉ là một chén sâm, cỏng lưa thưa một
vài hạt cơm! Thức ăn là tô canh rau xanh, rau do tù trồng, được bón loại phân
XANH, tức phân người trộn với lá cây xanh, phân lấy từ cầu tiêu nổi có thùng chứa.
Những lúc trời nắng hạn, không sản xuất đủ rau xanh, thay canh bằng lưng nửa
chén mắm thối!. Cai tù thầu mua tất cả các loại cá do ngư dân đánh bắt, không đủ
phương tiện ướp lạnh, không đủ muối ướp mặn, đã ươn sình, thối rữa. Lâu lâu, xe
tải chở cá vào trại, đã nghe mùi hôi tanh. Chúng đổ cá vào hồ làm mắm, hồ xây bằng
xi măng rất lớn, tường cao 2 mét, chia thành bốn ngăn khoản 3x2 mét, mặt trên bịt
kín, chừa một nắp đậy vuông.
Cá
không ăn muối cá ươn, ở đây cá đã ươn sình, đưa vào hồ làm mắn, đổ thêm nước
lã, lại không bỏ đủ muối, cá lên men mục nát rất nhanh, trở thành nước mắn. Màu
nước mắm đen ngồm, tựa nước ống cống chợ cầu ông Lãnh, Saigon! Những khi toán
anh nuôi mở nắp hầm lấy mắm, mùi thối xông lên nồng nặc, tỏa đi khắp khu trại
giam, đến nín thở. Cầm chén mắm, không cách nào tôi đưa chén mắm lên miệng được,
cho dù dùng mấy ngón tay cố bóp kín lỗ mũi. Tôi không ăn được mắm thối, nhưng
cũng không đổ bỏ đi. Đại tá bác sĩ Nguyễn
Văn Khái cựu Chỉ huy trưởng Tổng Y Viện Cộng Hòa Saigon, khuyên tôi:
“Anh
không ăn được anh cho người khác, tuy mắm thối nhưng nó có chất đạm, rất cần
cho cơ thể hiện nay”.
Tôi
đã đưa mắm cho người bạn, Đại tá Nguyễn
Văn Luật, cùng đội lao động với tôi.
Người
tù chính trị trong ngục tù cải tạo, có được sự sống còn, phải nhắc đến công lao
vô bờ bến của những người vợ. Mãi mãi tôi ghi nhớ công ơn vợ tôi. Nhờ vợ, hơn một
năm tôi thoát khỏi cảnh ăn mắm thối. Trước tết Kỷ Mùi-1979, từ Đà Nẵng vợ tôi lặn
lội vào trại tù Suối Máu, Biên Hòa thăm nuôi. Khi ngang qua vùng Nha Trang, vợ
tôi mua được 12 con mực khô lớn, loại xuất khẩu, họ đem bán chui.
Ngày
đầu mới chuyển đến trại tù A20 này, công an cán bộ khám xét tù trang, tất cả thức
ăn do gia đình tiếp tế đều bị tịch thu, tiền bạc đồng hồ, nhẫn vàng bị thu giữ.
May mắn cho tôi, tên công an cán bộ lo xốc xáo quần áo, chăm chú lục tìm những
thứ mà chúng có thể bỏ túi luôn được.
Chiếc
bao cát tôi đựng mấy con mực và gói muối bột, rơi ra một bên nằm cạnh chân tôi.
Lẹ chân tôi hất nhẹ vào đống đồ đã khám xong, nhờ vậy tôi giữ được bao thức ăn
vợ tôi vừa tiếp tế. Hàng tuần, trại cho tù xuống bếp hâm đồ ăn một lần vào buổi
trưa. Tôi cắt một đoạn mực, chừng một lóng tay, xé thật nhỏ cho vào lon ghi-gô
thêm chút muối bột, đun sôi làm thành nước mắm, ăn tằn tiện thoát nổi khổ húp mắm
thối mỗi bữa!
CHẾT
TẬP THỂ TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO
Từ
môi trường sống đó, ngoài bệnh lao như đã kể trên, hầu hết là ở các cháu tù
hình sự. Nhiều thứ bệnh khác thi nhau hoành hành trên thân xác người tù, nhất
là bệnh kiết lỵ, loại bệnh dễ lây lan, nguy hiểm, tử vong cao.
Người
bệnh, bụng đau nhói ruột co thắt, hậu môn luôn bị thúc dục đi tiêu liên tục,
nhưng rất khó khăn, chỉ tiêu ra chút ít đờm giãi lẫn lộn máu tươi. Không thuốc
men chữa trị, nhiều bệnh nhân kiệt sức không lê ra được khỏi nơi nằm, tiểu tiện
tại chỗ, mùi hôi tanh xông lên, từng đàn ruồi nhặng vù vù bay lượn, trông phát
khiếp!
Địa
ngục trần gian, đại học máu, những ngôn từ dành để chỉ “Trại Cải Tạo” dưới chế
độ cộng sản, không sai chút nào! Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm được Miền Nam,
chia người dân Miền Nam ra ba thành phần: Ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân, điều
tôi không bịa đặt, mà lời nói ra từ cửa miệng bọn cán bộ tuyên huấn, trong những
lần tiếp xúc với tù nhân.
Một
trong những đòn phép tàn độc cộng sản Hà Nội dùng để trả thù nhân dân Miền Nam
là: chính sách Bao Tử. Dùng bao tử để hành hạ thân xác con người, bỏ ĐÓI con
người, làm cho con người mất hết lý trí, tiêu tan ý chí kháng cự. Nhưng chúng
đã lầm!
Nói
đến đói trong trại tù cải tạo, thú thật, tôi viết lên điều này, xin người đọc đừng
cho tôi chê trách ai đó. Nếu ai chưa chịu đựng qua cái đói trong ngục tù cải tạo,
khi nghe nói đến đói, không thể có cảm nhận như người tù cải tạo đã ĐÓI! họ đơn
thuần thấy cái bao tử thiếu thiếu vì lỡ một bửa cơm, hay một vài ngày phải nhịn
ăn để trị bệnh. Đói trong trại cải tạo là một đòn thù ác nghiệt, có tính toán của
cộng sản.
Bao
tử người tù cải tạo, lúc nào cũng trống trơn, cơ trắng bao tử chà xát vào nhau,
một cảm giác đau đớn không biết diễn tả thế nào cho đúng. Ăn rồi cũng như chưa
ăn!, khổ cho cái bao tử cứ bị đánh lừa triền miên. Sau bữa cơm, tôi buồn tình
dùng đũa, gõ vào miệng chén, ngâm nga:
Mình ngỡ những
chưa ăn
ai ngờ đã ăn rồi.
Mình ngỡ những
chưa ăn,
ai ngờ đã ăn
xong!
Ôi tấm thân tù tội
...
Khi
viết bài này tôi mới biết, vô tình tôi đã đổi lời một đoạn ngắn trong bản nhạc
của một nhạc sĩ ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản, nhạc sĩ Trịnh CS, bài “Tình Nhớ”
(Tình ngỡ đã quên đi, như lòng cố lạnh lùng...). Lời tôi đổi, nói lên được tính
dã man của con người cộng sản, mà Trịnh CS là một.
Các
cháu tù hình sự, không còn lối thoát với cơn đói hoành hành thân xác. Trong những
giờ làm lao động bên ngoài, các cháu vớ được bất cứ con trùng gì, như dế, châu
chấu, cào cào, bọ ngựa hay cả con trùn, các cháu chỉ cần ngắt chân, lặt cánh,
phủi phủi rồi đưa vào miệng ăn sống ngon lành! Gặp bữa, có cháu bắt được nhiều
mồi hơn ăn tại chỗ không hết, dấu cán bộ, nhắt vào lai ống quần, tay áo, đem về
trại đến đêm lén lút ăn tiếp. Ăn để mà sống qua ngày, đa số ngả bịnh, chết lai
rai mỗi ngày.
Trại
có một đội lao động gọi là Đội tự giác, nhân số khoảng 40, tất cả đều là các
cháu tù hình sự. Được tuyển chọn từ những cháu học tập cải tạo “có tiến bộ”,
sinh hoạt “có thành tích”!
Đội
tự giác xử dụng khoảng 20 chiếc xe cải tiến, xe thùng có hai bánh niềng sắt. Nhận
công việc làm từ cán bộ trại và được tự do ra vào trại để thi hành công tác, có
công an Quản giáo giám thị, nhưng không có công an võ trang theo canh giữ. Sức
khỏe các cháu Đội tự giác có phần khá hơn, nhờ những lúc chuyên chở thực phẩm từ
Bộ chỉ huy trại vào khu giam tù, các cháu có cơ hội bòn tỉa được vài chút thức
ăn, tuy vậy cũng không thấm đủ vào đâu, đói vẫn hoàn đói!
Những
ngày không có công tác chuyên chở, đội tự giác cũng phải lao động cuốc đất trên
các ruộng rẫy, nhưng các cháu Đội tự giác được đi lại dễ dãi hơn. Từ đó các
cháu cử hai người đi tìm các loại rau cỏ có thể ăn được, dùng chiếc thùng lớn nấu
nước để uống trong lúc làm lao động. Gần cuối giờ, cho rau vào thùng nấu chín,
mang về trại chia nhau ăn, phụ thêm cho bữa cơm tù chẳng đủ vào đâu!
Mùa
hè, miền rừng núi nắng cháy, rau cỏ dại không còn. Lâu lâu, gặp một vài cơn mưa
giông, các vườn trồng cây mì (sắn) được bón phân xanh, gặp mưa rào đâm chồi
nhanh hơn loại cây cỏ khác. Các cháu Đội tự giác vào vườn mì, hái đọt mì cho
vào thùng nấu làm canh. Khoảng giữa tháng 5 năm 1981, đêm khuya đang ngủ, cửa
nhà giam số 8 của chúng tôi có tiếng động mở khóa, cán bộ trực trại rọi đèn
pin, bước vào gọi lớn: “Anh Khái, anh Nhu, mau theo tôi” (tức đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái và đại tá bác sĩ Phạm Văn Nhu)
Cán
bộ trực trại dẫn 2 bác sĩ qua khu tù hình sự. Chừng 15 phút sau, hai vị bác sĩ
quay trở về nhà giam số 8, vào trong cửa nói lớn:
"Các
cháu Đội tự giác ăn canh đọt mì, trúng độc tình trạng rất nguy kịch, xin các bạn
ai còn đường, còn đậu xanh, vui lòng nhín cho một ít để chúng tôi cấp tốc cứu
các cháu"
Gom
góp được một ít đường đậu, hai bác sĩ vội vã quay nhanh trở lại khu giam tù
hình sự. Hơn một tiếng đồng hồ sau, hai bác sĩ trở về láng, trầm buồn nói nho
nhỏ:
“Cả
đội tự giác chết hết rồi ! cháu Sơn ( đội trưởng) to khỏe như vậy cũng đã chết
ngay, may ra còn sống được hai em, nhờ đương bị bịnh, ăn ít hơn!”
Đây
đó có tiếng sụt sùi vì qúa xúc động, cảm thương cho các cháu! Tôi thực sự lại
khóc khi viết đến đây.
Thật
vô nhân, tàn ác, giam tù bỏ đói, bệnh hoạn không thuốc men. Gặp lúc nguy ngập
như vầy, không phương tiện cứu chữa. Bác sĩ “ngụy quân” đem giam tù đã 6 năm,
hai bàn tay trắng, tài nào cứu được mạng người sắp chết. Vậy mà bọn chúng cũng
trơ mặt, há mồm lên tiếng kêu, cứu người.
Xế
chiều ngày hôm sau, đội tù chúng tôi đang cuốc đất trên thửa ruộng cạnh ven rừng.
Xa xa về hướng trại giam, chúng tôi thấy một đoàn xe cải tiến chừng hơn 15 chiếc,
các cháu tù hình sự, một đứa kéo, hai đứa đẩy phía sau xe, hì hục kéo qua con
đường đất đỏ dưới chân đồi. Chúng tôi đoán biết đó là đoàn xe chở thi hài 37
cháu trong Đội tự giác đã chết tối hôm qua,
Khi
đoàn xe gần đến sau lưng chúng tôi, không ai bảo ai, chúng tôi tự động quay mặt
về đoàn xe chở xác, bỏ cuốc xẽm xuống đất, tay dở nón mũ áp vào ngực, đứng cúi
đầu. Hai công an võ trang canh gác, đứng trên bờ ruộng, ngạc nhiên hét lớn:
-
Các anh làm gì vậy, làm gì vậy, tất cả làm việc đi, làm việc đi.
Mặc
cho tên công an võ trang quát tháo, chúng tôi cứ tiếp tục đứng im, chờ cho đoàn
xe đưa ma qua hết, chúng tôi mới trở lại làm việc. Không có lấy một chiếc quan
tài, thi hài của các cháu được bó trong những chiếc chiếu, chăn mền mà các cháu
đã dùng để ngủ! Hai ba thi hài chất lên một xe, đưa ra chôn ở một triền đồi,
nơi đã có nhiều mộ của các cháu tù hình sự chết lai rai trước đó, tù nhân chính
trị chúng tôi cũng đã có người vĩnh viễn nằm đó.
Đến
nay, nghĩa địa này đã nằm sâu dưới đáy đập nước thủy điện Xuân Phước, Phú Yên!
Viết
để Tưởng Niệm các bạn tù chính trị, các cháu tù hình sự đã bỏ mình trong ngục
tù Xuân Phước. Chắc các bạn, các cháu đã siêu thoát về một thế giới Vĩnh Hằng.
Cầu xin các bạn, các cháu hộ trì lại cho Đất Nước Việt, Dân Tộc Việt sớm thoát
khỏi chế độ cộng sản tàn bạo, vô nhân!
California,
Tháng Tư Đen 2012
CHS/PCT/ĐN5460
Cựu TNCT Chế Văn
Thức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét