A20 Phạm Đức Nhì
Lúc mới đến Trại Trừng
Giới A20 tôi với anh Tăng Ngọc Hiếu
tuy khác đội nhưng cùng ở nhà 3. Cả hai đều ở tầng trên; tôi nằm cách anh 5, 6
người; tuy gần…mà xa. Cả tháng chỉ nhìn nhau chứ không ai nói với ai câu nào.
Sau khi điểm danh đóng cửa phòng anh Hiếu ngồi ra mép ngoài tầng trên, chân xếp
bằng, mắt đeo kính cận, thả hồn về một cõi xa xăm. Mặt anh lúc nào cũng nghiêm
và buồn, lại thêm đôi kính cận dầy cộm nên trông khó đăm đăm. Tôi có cảm tưởng
như anh đang bị bệnh táo bón kinh niên. (Sau này mới biết hoàn cảnh gia đình
anh thật đáng…lo đến táo bón. Năm 1975 lúc anh đi tù gia cảnh một vợ 6 đứa con,
3 trai, 3 gái; đứa con gái lớn nhất sinh năm 1968, mới 7 tuổi, đứa nhỏ nhất mới
tượng hình còn nằm trong bụng mẹ, mãi đầu năm 1976 mới chào đời)
Lúc ấy trong nhà còn có
bộ tứ Ánh, Phụ, Thuật, Khải, rồi
luật sư Trần Danh San, Vũ Hùng Cương
người nào cũng một bụng kiến thức, lại cởi mở, vui vẻ, sẵn sàng trả lời những
câu hỏi đôi khi khờ khạo ngớ ngẩn của tôi nên trên con đường học hỏi, mở mang
kiến thức, dù biết anh Hiếu đã từng là giáo sư triết, tôi vẫn tạm gác khuôn mặt
khó đăm đăm của anh qua một bên.
Thế rồi Nguyễn Hạnh, Phạm Văn Hải trốn trại bị
bắt lại, bị đánh bầm dập tống vô xà lim. Lúc được về đội thì thân tàn ma dại trông
thật thảm thương. Ngọc Đen và bà đầm
Nguyễn Đại Thuật (cùng một số người
khác nữa mà tôi đã quên tên) khởi xướng mỗi người một muỗng cơm giúp hai bạn
Hạnh, Hải có thêm chút bổ dưỡng để sớm phục hồi sức khỏe. Sau khi đi vòng quanh
rỉ tai thuyết phục và được cái gật đầu đồng thuận của “khổ chủ”, đến giờ lãnh
cơm chúng tôi lao vào công việc cứu trợ. Trước đó, khi bàn bạc chúng tôi định
chỉ nhắm vào những “khổ chủ” vừa có thăm nuôi ở trại mới, hoặc đã từng có thăm
nuôi đều đặn ở trại cũ. Nhưng số người thuộc loại này quá ít nên đành phải mở
rộng đến những thành phần khác. Tôi đưa ra ý kiến:
“Mỗi người chỉ được lưng
chén cơm, lường được khoảng từ 4 tới 5 muỗng, nếu múc mỗi người một muỗng đầy
(20 đến 25% lượng cơm của bữa ăn) sợ là nhiều quá, những người ít thăm nuôi -
đặc biệt là những anh em mồ côi- sẽ chịu không nổi.”
Cuối cùng đi đến quyết
định: “mỗi người một muỗng lưng.” Trước khi bắt đầu anh Thuật
nhắc nhở:
“Mấy ông phải kín đáo
một chút. Đừng lộ liễu quá ăng-ten nó để ý báo cáo thì cũng phiền lắm.”
May mắn được Nguyễn Văn Quỳnh (tự Tư Quết) tình
nguyện múc cơm, tôi và Ngọc Đen đóng
vai “đề lô” chỉ điểm, chén nào của phe ta được phép múc, chén nào của những
người mình chưa biết ý, chưa biết thái độ của họ thì thôi. Hôm đó kết quả thật
đáng khích lệ; chính những người ít thăm nuôi hoặc mồ côi lại là những người
hăng hái, mạnh dạn đẩy chén cơm của họ đến trước mặt Nguyễn Văn Quỳnh. Hạnh,
Hải mỗi người mỗi bữa được một tô cơm đầy để ăn thêm lấy lại sức.
Buổi tối vừa điểm danh
vào buồng xong anh Hiếu đến chỗ tôi
nằm. Sau vài lời thăm hỏi xã giao anh đi thẳng vào vấn đề:
“Tại sao Quỳnh lại không
múc chén cơm của anh Hiếu?” (Anh Hiếu có thói quen xưng là “anh Hiếu” với những
người trẻ tuổi hơn anh.) Tôi lại phải giải thích cho anh rõ. Nào là “đây là
việc làm trái với nội quy của trại, anh em phải làm kín đáo trong số những
người quen biết cũ. Anh Hiếu đối với anh em còn mới quá nên
chưa ai dám nói chuyện với anh Hiếu và dĩ nhiên, chưa có lệnh, Quỳnh làm sao dám
múc cơm của anh Hiếu được.” Rồi tôi vừa cười vừa nói tiếp:
“Với lại anh Hiếu mặt
lúc nào cũng khó đăm đăm như vậy thì bố ai dám hỏi.”
Anh Hiếu tháo cặp kính
cận xuống vừa chùi vừa nói một cách rõ ràng dứt khoát như ra lệnh:
“Mai nhớ nói Quỳnh múc
cơm của anh Hiếu.”
Trưa hôm sau, lúc chia
cơm anh Hiếu đứng xớ rớ gần chén cơm của mình. Khi người chia cơm vét hết hột
cơm cuối cùng từ đáy nồi và lên tiếng: “lấy hàng về” thì Quỳnh cũng mang tô và
muỗng ra làm nhiệm vụ. Anh Hiếu cầm chén cơm của mình đưa đến trước mặt Quỳnh
và môi nở một nụ cười thật tươi chờ đợi. Quỳnh hiểu ý múc một muỗng cơm rồi
tiếp tục quay qua những chén cơm khác nằm la liệt trên nền nhà ăn. Ôi! Nụ cười
của anh đẹp quá! Trên khuôn mặt khô cằn, hốc hác của anh Hiếu nụ cười như một
bông hoa tươi thắm làm sáng cả một góc nhà ăn. Và những lần chia cơm kế tiếp,
anh Tăng Ngọc Hiếu – một người có
hoàn cảnh gia đình bi đát, có tâm sự trĩu lòng – vẫn nở nụ cười tươi trên môi,
cầm chén cơm đưa tới trước mặt Nguyễn
Văn Quỳnh chờ đợi.
Trong cuốn truyện Ngày
Phán Xử Cuối Cùng của Blaga Dimitơrôva, nhà văn nữ người Bungari, tác giả cũng
có chương viết về một nụ cười. Trong một chuyến viếng thăm miền bắc Việt Nam
lúc chiến tranh còn khốc liệt bà được nhà thơ Tố Hữu - lúc ấy là Trưởng Ban
Tuyên Huấn Trung Ương Đảng - sắp xếp cho đi thăm một ngôi làng vừa bị đánh bom.
Khi bà và đám quan chức Việt Nam tháp tùng bước vào một căn nhà đã được chọn
trước, họ được một cụ bà da mặt nhăn nheo chào đón bằng một nụ cười. Nụ cười
quá đẹp đã làm nữ sĩ người Bungari choáng váng. Bà đã viết một câu (tôi không
nhớ nguyên văn) với ý nghĩa: “Tôi đã bay
bao nhiêu ngàn cây số đến đây chỉ để thấy một nụ cười.”(**) Bà không biết
rằng bà đã bị lừa. Nụ cười của bà cụ ấy là giả tạo, đã được dàn dựng trước.
Đàng sau nụ cười của bà cụ là cái gậy của cả một bộ máy “chuyên chính vô sản”,
là công an, là tổ dân phố, là mặt trận tổ quốc, là hội phụ nữ, là hội những
người cao tuổi, là tem phiếu để mua thực phẩm. Bà cụ không muốn làm khổ chính
mình, không muốn làm khổ con cháu nên đã phải đeo cái mặt nạ có nụ cười ấy lên
khuôn mặt cằn khô của mình. Nụ cười của Tăng Ngọc Hiếu hoàn toàn khác. Đó là nụ
cười của sự tự nguyện chia xẻ, của sự đùm bọc yêu thương. Đó là nụ cười của
lòng dũng cảm, đức hy sinh và tình nhân ái.
Giờ đây được sống trên
nước Mỹ tự do, của ngon vật lạ ê hề. Do ở sát biển, tôi thỉnh thoảng tặng anh
bạn này pound tôm càng, anh hàng xóm kia mấy con cua gạch, chị người quen nọ
vài con cá tươi mới từ tàu đem về. (Toàn của thiên hạ cho chứ không phải mua.)
Thế mà cũng được tiếng là thảo ăn, biết chia ngọt xẻ bùi với anh em bè bạn.
Nhưng làm sao so sánh được với Tăng Ngọc
Hiếu lúc ở Trại Trừng Giới A20. Một muỗng cơm lưng lúc ấy
giá trị gấp ngàn lần những tôm, cua, cá bây giờ. Bởi muỗng cơm lưng đó
là máu của mình, là thịt của mình, là sức sống và có khi là chính sinh mạng của
mình.
Nụ cười tươi trên khuôn
mặt hốc hác khổ đau của anh Hiếu đã theo tôi đến tận bây giờ. Tôi đã đánh mất
hơn 12 năm tuổi thanh niên, tuổi đẹp nhất đời mình trong các trại tù. Gia đình
tôi vì thế mà tan nát. Nhưng vớt vát lại tôi đã học hỏi được rất nhiều
điều nơi các bậc đàn anh đầy kiến thức và kinh nghiệm sống; đã nghiên cứu âm
nhạc, thơ ca và đã viết được những bài nhạc, bài thơ được khá nhiều người yêu
mến. Và mỗi bước tôi đi trên đường đời lâu lâu lại có nụ cười của Tăng Ngọc Hiếu hiện ra, gợi nhớ biết
bao kỷ niệm bi thương, hào hùng ở Trại Trừng Giới. Tôi bỗng nhớ tới đoạn nhạc
của Nguyễn Văn Thiệp – một thành
viên trong cái “văn bút” nho nhỏ mà chúng tôi thành lập ở Phân Trại B:
“Tôi vẫn còn nằm trong tay quân gian tham; sống đọa đày không kêu
ca than van; vẫn một lòng yêu em nơi phương xa; tim vẫn chứa chan tình người
thiết tha.”
Ra khỏi Trại Trừng Giới
mà vẫn còn giữ được trái tim chan chứa tình người là chúng ta đã chiến thắng.
Hình như tôi đã từng viết ở đâu đó: Chúng ta “mỗi người một hoàn cảnh riêng, có
cách chiến đấu riêng, đã đóng góp vào chiến thắng chung trong trận chiến giữa
một bên là sự bạo tàn sắt máu của cộng sản, một bên là những người tù A20 bằng
xương bằng thịt.” Và khi nói về cái kho vũ khí đa dạng của
người tù A20 bằng xương bằng thịt chống lại đám cai tù cộng sản sắt máu bạo
tàn, xin đừng quên Nụ Cười Của Tăng Ngọc Hiếu.
A20 Phạm Đức Nhì
(*) Sinh 1936
ĐHSP SG 63-67
Khóa 8/68 Thủ Đức
Tù 75-84
Biệt Giam nhiều lần,
tổng cộng hơn 1 năm
Hiện ở Mỹ
(**) Nguyên văn câu
trong sách ” Ngày Phán xử cuối cùng ” của Blaga Dimtritova như sau
” Tôi đã phải đi từ đầu đến cuối trái đất này để tìm gặp một nụ cười
.” ( P 137, bản dịch PHG, NXB TN 2004 ) ( TV&BH)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét