14/6/12

Tháng Tư về



Cứ mỗi lần tháng tư về là tiết trời bắt đầu oi bức, những cơn gió Nồm từ biển thổi vào cũng không làm sao xóa tan được cái cảm giác khô nóng của mùa hè. Tôi đi dọc theo bờ sông Bàn Thạch nhìn dòng nước đục ngầu uể oải xuôi về Đông, mang theo nó là những rác rến, xác chết súc vật và rất nhiều những thứ bẩn thỉu khác.

Trên bờ sông này trước đây là xóm làng trù phú, yên tĩnh và trong lành với rừng cây sưa tỏa bóng. Mỗi lần tháng tư về hoa sưa vàng rực một khoảng trời, mùi thơm dịu dàng quyến rũ, làm cho tôi ngày ấy – một cậu bé nhiều mơ mộng choáng ngợp trước vẻ đẹp rực rỡ của thiên nhiên mùa hè thường hay đứng ngẫn ngơ nhìn và suy nghĩ vu vơ… tháng tư về sân trường rộn ràng tiếng ve, khúc nhạc cất lên cùng giai điệu từ thưở ban sơ cho đến mãi mãi vô cùng, trong lòng các cô cậu lúc này chùng xuống một nỗi buồn nhè nhẹ, khi những cánh phượng hồng  chớm nở trên sân trường, trên đường đi học.

Về thăm trại cũ



Vượt Trà Bương ta về Kỳ Lộ
qua La Hai đứng ngó bóng tàu
núi chập chùng, núi dựng trên cao
giữa thung lũng trại thù còn đó

Trại Trừng Giới những ngày sóng gió
dấu gông cùm còn buốt trên da
mấy mươi năm - mấy mươi năm qua
chưa cơ hội một lần trả hận

ta về thăm những ngày lận đận
thăm bạn bè đã lỡ, nằm đây
đồi Vĩnh Biệt mộ chí còn đầy
và kẻ chết thù xưa vẫn nhớ

làm sao quên, một thời rách áo
mười năm dai dẳng một chuyến đi
Trại Trừng Giới, lò nung ý chí
chỗ của xích xiềng rổn rảng khua

làm sao quên những ngày rớt mưa
đất miền Trung lũ tràn lên núi
những lát khoai mì khô đen đủi
như mối thù nuốt vội cho qua

những thân người còn lại xương,da
dưới nắng hạ Lào leo lên dốc
lao phổi, và cơn ho khô khốc
kẻ chết còn máu ứa trên môi

làm sao quên những ngày nổi dậy
trên gông cùm sang sảng quốc ca
dìu nhau chờ dựng lại sơn hà
dựa lưng trong tận cùng địa ngục

ta về thăm góc rừng năm cũ
để nghe trong chiều tiếng vang vang
bảy cánh chim vượt ngục ngang tàng
trước lũ giặc luôn ghìm tay súng

ta về thăm những ngày xưa cũ
kín đáo chuyền tay tờ Hợp Đoàn
Trại Trừng Giới - giấc ngủ không ngon
chí cả vươn lên từ xương máu

những Ánh, Phan, Nhì, Khải,Thiệp
những Thuật, Trung, Dũng, Chí Thành
giữa rừng chiều, giữa núi lạnh tanh
ta nhắc khẽ tên người cố cựu

trại giặc ta về thăm chưa đủ
những bi hùng ca thuở xa xưa
bao năm rồi nắng xế, chiều mưa
Xuân Phước A20 - một thời xương máu


A20 nguyễn thanh-khiết
12-2011


Xuân Muộn


 Mùa xuân năm nay đến muộn, mãi đến 13 tháng giêng âm lịch mới lập xuân. Những ngày Tết trời lạnh và u ám, mưa lất phất bay, hình như mùa đông vẫn còn ngự trị, các chàng trai cô gái co ro trong những bộ áo quần mới, họ ngồi nhìn mưa, liên tục cắn hạt dưa và chuyện phiếm, trong những câu chuyện đó tôi nhận ra phảng phất một nỗi buồn về một tương lai thiếu vắng niềm tin nơi bản thân và xã hội. 

Về bản thân, những chàng trai cô gái này cảm thấy bất an, vì sau những năm dài miệt mài trong trường Đại học, với những gói mì tôm lót lòng là thường trực, sinh hoạt tù túng trong căn phòng trọ chật hẹp, ẩm thấp vào mùa đông, nóng bức trong mùa hè, vẫn còn ám ảnh và còn đó những khoản vay từ ngân hàng, từ bà con họ mạc chưa trả được, vẫn còn đó nỗi lo lắng của cha mẹ khi một năm trôi qua rồi kể từ ngày hân hoan đón nhận cái bằng tốt nghiệp mà công việc vẫn ngoài tầm tay với. 

Ở Việt Nam bây giờ muốn có một công việc ổn định tại thành phố phải có từ 50 triệu đến vài trăm triệu để “lót đường”, với mức lương cơ bản từ 2 triệu đến 4 triệu đồng một tháng, đó là đối với những kỹ sư hoặc cử nhân. Còn đối với những anh chị có bằng Trung cấp, Cao đẳng thì cơ hội tìm kiếm việc làm còn khó khăn hơn rất nhiều và có thể là vô vọng nếu không phải là “con cháu các cụ”. 

Về xã hội, thái độ bàng quan, vô cảm vẫn là căn bệnh trầm kha, tuy nhận biết xã hội này đầy dẫy bất công, tham nhũng tràn lan, đạo đức suy đồi, niềm tự hào dân tộc xuống đến mức Zero, an ninh quốc gia bị Trung cộng đe dọa, những nhà lãnh đạo đất nước thì “khôn ngoan” đến mức không còn phân biệt được lằn ranh giữa bạn và thù, “đồng chí” và kẻ xâm lược. 

 Lá cờ 6 sao của TC xuất hiện trong buổi lễ chính thức tại Hà Nội khi tiếp đón lãnh đạo “thiên triều” Tập Cận Bình vẫn chưa khơi gợi được một sự bất an nào trong tâm thức của giới trẻ VN. 

 Họ bất mãn với xã hội nhưng không muốn làm gì để hoàn thiện nó, hoặc thay đổi nó. Họ chọn một chỗ đứng an toàn để chờ ai đó làm thay cho họ. Họ không hề biết đất nước này là của họ, nó tùy thuộc vào chính thái độ và hành vi ứng xử của họ, và họ là người chủ đất nước này hoặc là nô lệ trên đất nước mà tiền nhân của họ để lại. Họ có thể là người sáng tạo nên lịch sử hoặc là nạn nhân của lịch sử. 

Họ bàn bạc với nhau về mọi thứ, về tình yêu, về thời trang, về công việc của họ hiện nay hoặc đang tìm kiếm. Họ bàn về những “đại gia” tại VN với những tài sản khổng lồ, như những ngôi biệt thự rải rác khắp nước của ông lãnh đạo nào đó, những chiếc xe hơi hàng tỉ đồng và cung cách tiêu tiền như rác của cậu ấm cô chiêu nào đó… tôi hỏi một anh bạn trẻ: 

 - Vậy những người đó lấy tiền ở đâu mà nhiều thế ? 

Anh bạn trẻ trả lời rất tự nhiên và xác tín những gì anh nói: 

- Tiền từ tham nhũng hối lộ, từ rút ruột công trình, vơ vắt tài nguyên quốc gia đem bán, từ cướp đất của người dân …v v và v v. 

Một anh bạn khác chen vào: 

 - Đất đai bây giờ là vàng bạc, đây là nguồn thu cực kỳ quan trọng của chế độ để nuôi sống guồng máy hiện nay, nếu có một ngày, vì một lý do nào đó họ mất nguồn thu này thì chế độ này coi như “mất máu” khó mà đứng vững được chú ạ! 

Tôi nhận ra giới trẻ Việt nam rất thông minh chứ không tầm thường tí nào, họ đã nhận ra tử huyệt của chế độ, cái nhìn mang tầm vóc chiến lược chứ không vừa, và tôi cảm thấy một niềm tin mãnh liệt dâng lên trong lòng. 

Tôi cố tìm xem câu trả lời nằm ở đâu khi những người trẻ của chúng ta biết đó là một vấn nạn ô nhục của quốc gia nhưng có vẻ như họ chấp nhận nó, chung sống với nó và cúi đầu chịu đựng nó. 

 Tôi hướng họ sang đề tài chính trị. 

- Ở Đài Loan vừa rồi, qua cuộc bầu cử Tổng thống có một câu chuyện vui như thế này: Một người Đài Loan tự hào nói với một người Việt Nam rằng: - Bầu cử tại Đài Loan chúng tôi Tự do, Dân chủ, minh bạch, chính xác, trong sáng và có kết quả nhanh chóng sau 24 giờ”. 

Anh chàng VN phản bác: 

 - Sau 24 giờ mới biết kết quả thì có gì đáng tự hào, ở nước chúng tôi người ta biết được kết quả bầu cử Quốc hội trước đó một năm!!??. 

 Họ cùng cười và trả lời: 

- Vì đã được "cơ cấu" trước rồi chú ạ, chế độ “Đảng cử -dân bầu” mà! 

 Nhưng câu chuyện chỉ dừng lại ở đó mà không có cô cậu nào bàn tiếp… vì sự “tế nhị” của nó. Người dân VN hiện nay rất nhạy cảm với sự “tế nhị” hay nói chính xác hơn là sự sợ hãi. 

Tôi đã nhận chân được vấn đề, sự sợ hãi chính là trói buộc làm cho người dân xa lánh chính trị, bàng quan với thời cuộc và vận mệnh quốc gia. Tôi cảm thấy bức bối, cầm chiếc dù trên tay đi ra đường cho dễ chịu, những hạt mưa bay bay như bụi, những đợt gió lạnh từ phương Bắc vẫn tiếp tục đổ về, trời u ám… nó giống như tình cảnh của đất nước này. 

Hôm nay đã là 20 âm lịch, tôi làm một chuyến du xuân về miền quê, đến tận cảng Dung Quất, dọc đường đi, nhìn những cây mai trổ hoa vàng rực rỡ, mùi hương dịu dàng thoảng bay trong gió, lòng nhẹ nhàng lâng lâng trước cảnh sắc mùa xuân. Người ta nói mai là sứ giả của mùa Xuân thật đúng như vậy, mai bắt đầu nở rộ từ ngày lập xuân đến nay, nếu không có mai người ta khó cảm nhận được trời đất đã sang xuân. 

 Cảng Dung Quất đây rồi, trước mắt tôi là làn nước xanh thăm thẳm với những tảng đá to nhô lên từ đáy biển tạo nên vẻ đẹp quyến rủ và tráng lệ, nắng ấm làm cho không khí trong veo và nhẹ nhàng. Những cơn gió Nồm từ ngoài biển thổi vào lồng lộng mang theo hương vị biển khơi thật dễ chịu. Nhìn những chiếc tàu bắt đầu rẽ sóng ra khơi, hoặc đang chuẩn bị tất bật cho một chuyến đi dài đầy bất an và mạo hiểm. Tôi ước ao một mùa cá bội thu sẽ đến với ngư dân của chúng ta, những người ngày đêm bám biển để giữ gìn di sản của tổ tiên, để cung cấp cho mọi người những bữa ăn bổ dưỡng, ngon lành từ biển quê hương. 

Trước cảnh sắc mùa xuân huy hoàng và non sông gấm vóc làm cho lòng tôi tràn đầy hy vọng về tương lai của đất nước và dân tộc mình... Mùa xuân Dân chủ - tự do đã đến với các dân tộc Bắc Phi, Trung Đông và Miến Điện, tôi tin rằng cũng giống như mùa Xuân năm nay đến muộn, nhưng cuối cùng nó cũng đến vì đó là quy luật của đất trời.

Huỳnh Ngọc Tuấn 
3-2012




Hồi ức về nhà tù cộng sản Việt Nam



A20 Huỳnh Ngọc Tuấn




Kính tặng anh Nguyễn Ngọc Đăng

Các anh các chú đã từng đi qua những nhà tù Xuân Phước-Thanh Hóa-Nam Hà
Kính nhớ Bác sĩ Nguyễn Kim Long, chú Nguyễn Trưởng, anh Nguyễn Văn Bảo, anh Đỗ Hườn

Những người đã nằm xuống trong nhà tù Cộng sản Việt Nam vì những giá trị Dân chủ Nhân quyền.

Huỳnh Ngọc Tuấn

 
*****


(Phần 1)
Miền Trung Việt Nam bây giờ là chớm đông với những cơn mưa trút nước. Cánh đồng trước mặt một ngày trước đây mướt xanh màu lúa non, bây giờ đã mênh mông nước bạc. Những con đường nhỏ ngập ngụa trong bùn và rác…chẳng đi đâu được, đọc sách hoài cũng chán, mở tivi ra thi cứ toàn phim Tàu và những lời lẽ tuyên truyền cũ rích nhai đi nhai lại. Chỉ còn biết ngồi nhìn mưa và vừa nhận được email từ Úc: Ông bạn Nguyễn Ngọc Đăng đang bị ốm. Lòng buồn rười rượi. Bao nhiêu kỷ niệm lại quay về.

Trại giam Xuân Phước - Phú Yên, mùa đông 1994

Những cơn mưa nhỏ lất phất, trời không lạnh, những người tù chính trị chúng tôi trong đội 12 vào nghỉ giải lao trong một căn nhà lợp lá dừa. Cũng không phải là nhà vì chỉ có mái che, chung quanh không có phên vách gì.

12/4/12

Trại Trừng Giới A20


A20 Tống Phước Hiền

Kính thưa quý bạn đọc,

Những ngày hôm nay, 37 năm về trước, quê hương chúng ta đang đứng trên bờ vực nguy khốn. Bây giờ nhìn lại, chúng ta không khỏi ngậm ngùi thân phận quê hương, gia đình và chính chúng ta. Buồn đau thật nhiều, trách bạn và cũng trách chính mình!

Đây là thời gian, chúng ta nhìn về quá khứ , nhìn về quê hương trầm thống. Chúng ta cần bình tĩnh nhận định lại để tìm phương kế giải cứu quê hương.

Đã quá đủ cho những giòng lệ rơi vì tang tóc, nghiệt ngã, đoạn trường vì non sông trong  tay tay nội thù cộng sản Việt Nam.

Quê hương đang cần chúng ta hành động!


11/4/12

Thiên thần trong ngục tối: “Long Bô”



A20 Phạm Đức Nhì

        Tôi vừa cầm ly nước mía lợn cợn đá mát lạnh đưa lên miệng thì giật mình tỉnh dậy. Cơn mơ bị gián đoạn. Có tiếng lao xao nói chuyện của cán bộ Tri an ninh và mấy tên trật tự. Và tiếng lọc cọc mở cửa xà lim số 1 và số 2. “Sao lại mở cửa xà lim giờ này?” Tôi tự hỏi. Cơm chiều đã phát, tôi đã cho vào bụng lâu rồi. Tính đến hôm nay tôi đã nằm chịu sự đày đọa của Thân Yên (1), Lê Đồng Vũ (2) và đám cán bộ an ninh, trực trại được 16 ngày. Bao phủ bởi cái khí lạnh mùa đông của đồi núi miền trung, lại chỉ có trên người phong phanh một bộ đồ tù mỏng dính, tôi ngồi co ro tê cóng trên bệ đá. Sự thiếu nước lưu cữu (mỗi ngày chỉ được phát nước 2 lần, mỗi lần 2 muỗng canh nhỏ cùng với lúc phát cơm) đã làm môi tôi khô rát, cổ đắng ngắt; chợp mắt một tý là lại mơ uống nước mía Viễn Đông (3) hoặc ăn thạch chè Hiển Khánh (4). Mỗi bữa chỉ có 2 muỗng cơm nên hậu môn của tôi đã ngừng hoạt động được 15 ngày (ngày đầu tiên phải làm việc để tống khứ những thức ăn cũ có sẵn trong bụng.)

10/4/12

Các bạn A-20 thân quí,



A20 Vũ Ánh

Các bạn A-20 thân quí,

         Sau cuộc họp mặt lần đầu tiên ở Little Saigon, có một vài bạn tù của chúng ta ở các trại khác hỏi tôi như thế này: "Bộ các anh hãnh diện vì cái tên trại giam của bọn đỏ hay sau mà lấy cái tên A-20 đặt trước tên của các anh". Tôi biết những người bạn của chúng ta hơi "bảo hoàng hơn vua" cho nên hỏi cắc cớ như vậy. Nhưng tôi mạn phép các bạn A-20 trả lời như thế này:

11/3/12

Không Thể Tình Cờ



(gởi hiền thê P.T.)

Anh cứ trách cho lòng em dậy sóng
Cho nỗi buồn dừng lại giữa câu thơ
Dẫu hiếm hoi nhưng không thể tình cờ
Em chợt thấy đâu bến bờ thương nhớ

Dù sự thật đó là điều đáng sợ
Ðã cho em bao khốn khổ không cùng
Nhưng nếu đời là một mẫu số chung
Thì chắc lẽ mình cũng cùng số phận

Nên em đã không ngại ngùng chấp nhận
Xích xiềng kia thôi cũng chỉ tầm thường
Bởi anh là biểu tượng của quê hương
Là dáng đứng trên đường em bước đến

Là ánh sáng của muôn ngàn ngọn nến
Dìu em qua cùng với trái tim người
Với nụ cười của cha ông
Của từng giọt máu trên sông Bạch Ðằng.

Hướng Dương - A20 Vũ Đình Thụy
(A20 Phú Yên 12/1993)




22/1/12

CÂU CHUYỆN NGƯỜI TÙ TRƯƠNG MINH NGUYỆT



CÂU CHUYỆN MỘT NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT ÍT ĐƯỢC NGƯỜI ĐỜI BIẾT ĐẾN: CUỘC ĐỜI VÀ NHỮNG NĂM TÙ ĐÀY LAO LÝ CỦA KỸ SƯ TRƯƠNG MINH NGUYỆT
Quỳnh Trâm
Kính thưa quý vị,
Kính thưa quý thân hữu, quý chiến hữu cùng quý Niên trưởng,

Nói với thế hệ thứ ba để tiếp nối cuộc trường chinh tổ quốc


Đã nhiều lần ta tìm trong ký ức
Không thấy gì ngoài máu lửa thù căm
Không thấy gì ngoài hàng hàng lớp lớp
Bè bạn bỏ đời, rồi bè bạn đứng lên
Những ngọn cỏ xanh đã một lần đơm nụ
Đã tức tưởi miên trường, tức tưởi gãy ngang
Những ngọn cỏ xanh vùi rạn vào thân thể
Làm đá lót đường cho thế hệ thứ ba
Ôi ! chinh chiến đong đầy nước mắt

Phan Lạc Giang Đông


Về Ðà Nẵng Lần Cuối...



A20 Nguyễn Chí Thiệp

Sau hiệp định Paris 26 tháng 1, 1973, Hoa Kỳ hạn chế viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà. Sự sụp đỗ của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Tôi thường cọng tác ở các quân khu và các tỉnh nên thấy rõ điều này. Các cấp chỉ huy quân sự cao cấp thấy mình bị bó tay trong khi quân chính quy của Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập ào ạt qua đường Trường Sơn. Nhưng không ngờ được sự sụp đổ của miền Nam quá nhanh sau khi thất thủ Ban Mê Thuột và quyết định rút quân đoàn 2 ra khỏi Pleiku.

Bình-Tuy, Những ngày cuối cùng !


A20 Lê Phi Ô

(Hồi ký chiến trường)

Ngày 02 tháng 04 năm 1975, Tiểu-khu Bình-Tuy được TK/ Bình-Thuận thông báo: Đoàn người di tản từ các tỉnh miền Trung (sau cuộc lui binh của vùng II chiến-thuật) đang hỗn loạn tràn vào thị xã Phan Thiết, lẫn lộn trong đó có một số tù nhân trốn thoát, thành phần bất-hảo và cũng có thể việt cộng giả dạng lính QL/VNCH bắn, cướp phá gây sợ hãi cho đồng bào tị nạn cũng như dân chúng tại địa-phương và tiếp tục đi về hướng Bình Tuy. TK/BT tức khắc xin QĐ III tăng phái một đại-đội Quân-cảnh, đơn vị QC này làm nút chặn tại ngã ba 46 (ngã 3 vào Bình-Tuy từ Quốc lộ I. .

Tiểu đoàn 344/ĐP của Lê phi Ô chiếm giữ các cao điểm xung quanh để bảo vệ QC làm nhiệm vụ tước khí giới những quân-nhân thất lạc đơn vị và bất cứ ai có vũ-khí trong đoàn người di-tản, những đơn vị còn sĩ quan chỉ huy thì được giữ lại vũ khí và chờ lệnh Quân-Đoàn III, Tiểu đoàn 341/ĐP của Đ/U Lê Hùng phối hợp với Quân cảnh để ngăn ngừa cướp phá và được lệnh bắn hạ bất cứ ai có vũ-khí mà không tuân theo lệnh QC, vì thế chỉ trong 3 ngày với nhiều đoàn di tản vào Bình-Tuy ước độ gần 300 ngàn người nhưng rất trật tự tiến vào thị xã La-Gi (hoàn toàn có trật tự từ cửa ngỏ vào Bình-Tuy cho đến khi được xà lan di chuyển hết về Vũng Tàu, 10 ngày mới hoàn tất).

TÔI ĐÃ GẶP Ở ĐÂY


Sau khi bị đánh đập, cùm kẹp đến liệt hai chân và rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được đường tiểu tiện và đại tiện, tôi nằm chờ chết trong xà lim. Nhờ sự can thiệp tận tình của hai bác sĩ tù Trần Quý Nhiếp và Trần Văn Lịch, cộng thêm đề nghị của một phái đoàn Thanh Tra Y Tế từ trung ương, tôi được chuyển vào một bệnh xá nhỏ ở Phân Trại B, nơi giam giữ tù hình sự. Tôi đã sống chung với đủ mọi loại tội phạm: giết người, trộm cướp, hiếp dâm, lừa đảo, xì ke ma tuý …v. v.

Tôi đến đây
trong một lần đi trốn
khi đang trong cuộc một trò chơi lớn
trò chơi đấu tranh
nhìn quanh
tôi thấy toàn thú dữ
mắt tròn xoe đổ lửa
uống máu ăn thịt lẫn nhau
trong khi bên ngoài những lớp rào
và những hào sâu
bầy quỷ sứ đứng canh
ngả nghiêng cười khoái trá

CHIẾC KẸP TÓC


Bài thơ này viết về sự việc có thật tại trại A 20 Xuân Phước. Nhân vật chính trong bài thơ là một anh bạn trẻ, tù chính trị có án tại nhà 4. Tôi đem bài thơ đến len lén tặng anh. Mấy ngày sau anh gặp tôi và nói “Tụi nó đạp gẫy cây kẹp tóc ; tôi đã nhờ gởi bài thơ của anh về tặng em gái tôi để thế cho cây kẹp. Chắc nó hiểu lòng tôi
Chiếc kẹp tóc xinh xinh
anh dành tặng cô em gái
ngày anh đi tù còn nhỏ dại
giờ đã bước vào tuổi mộng mơ
chiếc kẹp tóc đơn sơ
nhưng ấp ủ
biết bao tình thương
của nguời anh tha hương

TRIỆT THOÁI




A20 Lê Phi Ô

(Những cứ điểm mà việtcộng cần phải triệt-hạ trước khi tiến đánh Xuân-Lộc, Long-Khánh)

I/ Tháng 12/1974 Việtcộng mở chiến dịch "Tánh-Linh & Hoài-Đức" với mục đích đánh chiếmhai quận Tánh-Linh và Hoài-Đức thuộc tỉnh Bình-Tuy. Nếu thành công chúng sẽ cắtđứt được Quân-khu II và Quân-khu III tại cây số 125 thuộc Quốc lộ 20 đường điĐà-Lạt và chúng cũng sẽ kiểm soát được ngã ba Ông Đồn nằm trên Quốc lộ I đây làcon đường huyết mạch đi các tỉnh miền Trung, đồng thời bao vây và cô lập trướckhi đánh chiếm thị xã Xuân-Lộc cửa ngỏ vào Saigon.

Nhưng ý đồ của việtcộng thất bại vì chúng chỉ chiếm được quận Tánh-Linh nhưng không chiếm đượcquận Hoài-Đức. Vì thế, Quân khu 6 việt cộng xin bổ sung thêm 2,000* quân (*tàiliệu của Dr. Nguyễn-đức-Phương tác giả "Chiến-tranh VN toàn tập").Việt cộng tương đương cấp sư-đoàn mở cuộc tấn công Hoài-Đức đợt II bắt đầu từtuần lễ thứ nhì của tháng 03 năm 1975, lực-lượng phòng thủ của ta ban đầu gồmcó tiểu-đoàn 369/Địa Phương phòng thủ nội vi chi-khu, tiểu-đoàn 3/43 thuộcsư-đoàn 18/BB tăng phái đóng quân tại phi trường L.19 nằm về phía tây củachi-khu 1,000m. Khi áp lực địch trở nên quá nặng, tiểu-đoàn 344/ĐP đang nghỉdưỡng quân tại tỉnh lỵ sau trận đánh tháng 12/1974 được lịnh khẩn cấp nhảy vàoHoài-Đức để tăng cường phòng thủ (cũng trong thời gian này việt cộng với nhiềutrung-đoàn chúng tấn công quận Định-Quán thuộc tỉnh Long-khánh). Địch quân vớiquân số nhiều hơn ta năm lần với hỏa lực yểm-trợ của cả một trung-đoàn pháo,trong khi đó phía ta chỉ có vũ-khí cơ-hữu của mỗi tiểu-đoàn. Hoài-Đức(Bình-Tuy) và Định-Quán (Long-khánh) thất thủ rạng sáng ngày 20 tháng 03 năm1975.

II/ LUI BINH: Sau khicứ điểm chi-khu Hoài-Đức bị địch tràn ngập, tôi cố gắng liên lạc với cánh B củatôi, đồng thời liên lạc với các cánh quân khác gồm có TĐ3/43/BB, Bộ chỉ huychi-khu, trung đội Pháo binh 105 ly nhưng không nơi nào trả lời, tôi đoán làcác đơn vị bạn bị thiệt hại nặng nên mới mất liên lạc như thế và lợi dụng việtcộng ngưng tiếng súng, cánh A do tôi chỉ huy đoạn chiến... lùi lại đồi đá thậtnhanh để sẳn sàng trận đánh cuối cùng.

Kiểm soát vũ khí đạndược, chỉ đủ để cầm cự được vài giờ vì không được tiếp tế. Chung quanh tôi bánkính khoảng 70 cây số không có bạn, không có pháo binh và phi cơ yểm trợ, mọiliên lạc vô tuyến đều im bặt, tôi mất liên lạc hẳn với cánh B... lương thựccũng chỉ dùng được hai ngày, nước uống rất khan hiếm vì mùa nắng... và đang bịđịch bao vây kêu gọi chúng tôi đầu hàng !

Tôi khẩn cấp cho tu bổhệ thống phòng thủ nhưng vẫn sẵn sàng di chuyển bất cứ lúc nào. Tiểu đội Tìnhbáo còn được 7 người do sĩ-quan trưởng ban 2 tiểu-đoàn chỉ huy chia làm haitoán nương theo đường thông thủy trườn xuống đồi theo hướng tây, hướng nầy toàngai tre và trũng nước... nhiều đoạn phải bò sát đất nên việt cộng không thểphục kích ở đây được. Nhưng đây là tử địa, nếu địch phát giác mà nã pháo vàothì chỉ có chết... không cách nào vùng vẫy được. Đến 06:00 giờ chiều các toáncảnh giới báo đã vào vị trí an toàn, hoàn toàn không có dấu vết của địchquân... tôi mừng rỡ vì đây là con đường thoát hiểm duy nhất. Nhưng muốn thoátbằng lối nầy không phải là dễ, tuyệt đối không được gây tiếng động và cũng cầnphải rút thật nhanh, đoạn đường tử-thần này dài gần 1.000m. Tôi ra lịnh haitoán cảnh giới này bám sát trận địa, mỗi một sơ hở cánh A chúng tôi chắn chắnsẽ bị xoá sổ.

7:00 giờ tối, cảnh vậtbắt đầu lờ mờ, tôi cho gài mìn Claymore và lựu đạn tối đa xung quanh khu vựcđóng quân, tất cả lều võng đều giữ nguyên để địch không nghi ngờ mình bỏ đồi,chọn một tiểu đội tình nguyện ở lại và sẽ rút sau khi có lệnh.

8:00 giờ, trời tối đennhư mực, chúng tôi bỏ đồi, từng người một nhẹ nhàng nương theo cỏ tranh trườnxuống như một đàn rắn. Di chuyển được 500 thước, tôi bấm ống liên hợp ra hiệucho tiểu đội còn trên đồi rút bỏ... đến khi tiểu đội này theo kịp, tôi cho cánhA tiếp tục di chuyển. Nửa đêm chúng tôi thoát khỏi rừng tre và tiếp tục dichuyển thêm 500 thước thì dừng lại. Phía đồi đá, nơi chúng tôi vừa rút bỏ cótiếng mìn claymore và lựu đạn nổ... ngưng chừng 10 phút lại có tiếng mìn và lựuđạn nổ, nhưng lần nầy lại có cả tiếng súng AK.47 nổ vang cả góc rừng, tiếp theolà tiếng hò hét xung phong. Tôi gọi các cánh quân của tôi để xác nhận thì khôngai chạm địch cả, có thể các cánh quân của VC khi tấn công lên đồi đã ngộ nhậnmà bắn lẫn nhau, như thế càng tốt.

Mờ sáng ngày 21/03/75tôi cho rải mỏng quân với hy vọng đón nhận được quân bạn thất lạc... nhưng chođến chiều chỉ nhận thêm được 20 người thuộc gia đình quân nhân và vài ngườilính của chi khu vẫn còn súng đạn. Không thể chần chờ thêm nữa, để đánh lạchướng địch, tôi cho cánh A nhắm hướng chính Tây di chuyển, gần nửa đêm chúngtôi gặp sông La-Ngà ranh giới giữa Bình-Tuy và Long-khánh, tôi cho chuyển hướngchính Nam (dọc theo sông La-Ngà) tiếp tục đi cho đến mờ sáng, như vậy chúng tôiđã đi xa khỏi vòng vây của địch hơn mười cây số. Tôi lại lấy hướng Đông Nambăng qua tỉnh lộ 333 thuộc ấp Trà-Tân 2 (nơi đây cách hơn hai tháng trướcLĐ7/BĐQ đã chạm nặng với địch) hướng này sẽ về căn cứ 6 nằm trên Quốc lộ I cáchđây 60 cây số. Đến 9:00 giờ sáng chúng tôi gặp suối Gia-Huynh, mùa này nước cạnnên cố đào để lấy nước... ăn uống qua loa rồi tiếp tục lên đường.
Khoảng 2:00 giờ trưachúng tôi gặp đường rầy xe lửa ga Gia-Huynh với những toa tàu còn sót lại, cảnhvật hoang phế vì lâu năm không có bóng người. Nhà ga, toa tàu và đường ray cỏvà giây leo mọc che kín, nơi đây là vùng hoạt động tự do của việt cộng từ khiđường xe lửa không còn xử dụng, tôi cẩn thận chia đoàn quân làm hai cánh. Đến5:00 giờ chiều gặp vài đường mòn đầy vết giày và dép râu của địch. Đi thêm nửagiờ trời bắt đầu nhá nhem tối... phía trước có nhiều tiếng động khả nghi, tấtcả trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Trong tình thế di tản chiến-thuật đơn độc,tôi cố tình tránh né giao chiến với địch, vừa đổi hướng tiến quân, bất ngờ mộttoán việt cộng đã nhìn thấy chúng tôi nên bắt buộc chúng tôi phải nổ súng.

Tiếng súng giao tranhnổ vang cả một góc rừng, tôi cho lịnh xung phong bất kể địch quân là bao nhiêu,những tên việt cộng gần nhất bị bắn hạ ngay loạt đạn đầu tiên... chúng tôi đánhtràn qua thuận đường rút lui. Trên chiếc xe Truck chứa đầy thùng gỗ không biếtvũ-khí hay lương thực vì trời quá tối, xác vài tên việt cộng nằm vắt ngang... mặckệ chiến lợi phẩm, tôi chỉ tịch thu một chiếc cặp da chứa tài liệu và phóng đi thậtnhanh. Vì đêm tối, chúng tôi sợ lạc nhau nên chỉ đi một hàng dọc, cả hai cánhliên lạc chặc chẽ với nhau, đoàn người cứ lặng lẽ đi như những bóng ma. Gần nửađêm, vì quá tối nên chúng tôi dùng những mảnh cây mục có lân tinh cắm vào ba lôđể người đi sau nhìn thấy người đi trước cho khỏi lạc. Khoảng 03:00 giờ sángchúng tôi dừng lại nghỉ vì quá mệt, đến 05:00 giờ sáng lại tiếp tục di chuyển.

Cuộc chạm súng lúcchiều coi như chúng tôi đã bị lộ, tôi biết chắc là địch sẽ truy kích, vùng nàytừ nhiều năm nay là của bọn chúng, nơi dưỡng quân của trung-đoàn 33 Quyết thắngVC, chúng tôi phải thoát ra khỏi đây thật nhanh. Tôi cho lịnh đại-đội 1/344đại-đội trưởng là trung-úy Quảng (gốc TQLC) cùng đại-bác 57 ly, cối 81 ly (cảhai đều hết đạn) với 20 người dân cùng đại-đội Chỉ-huy đi trước sau khi đã dặndò những điểm tập trung trong trường hợp thất lạc nhau. Tôi và đại-đội 2/344của trung-úy Vương đi sau để cản hậu trong trường hợp bị địch tập kích.

06:00 giờ sáng ngày22/03/1975 rừng còn mờ sương, cánh quân đại-đội 1/344 vừa di chuyển được 15phút thì chạm địch... bọn việt cộng bỏ chạy, tôi đoán đây chỉ là tổ báo độngcủa địch, như thế chúng tôi lại bị lộ lần nữa, chắc chắn địch cố truy lùng đểtiêu diệt chúng tôi, một trận ác chiến sẻ không tránh khỏi. Tôi cho đại đội1/344, đại-đội Chỉ-huy và 20 đồng bào chạy thoát thật nhanh, tôi và đại-đội2/344 của trung-úy Vương mở cuộc phục-kích chớp nhoáng... chờ địch.

Đúng như dự đoán, bọnviệt cộng đã theo kịp và một cuộc chạm súng ác liệt xảy ra. Vì đã chuẩn bịtrước nên chúng tôi đốn ngã từng đợt việt cộng xuất hiện dễ dàng. Việt cộngmuốn trả thù đồng bọn bị chúng tôi giết chết ngày hôm qua nên bọn chúng cứ tràntới, ngã lớp này lớp khác lại tiến lên như loài thiêu thân, xác địch nằm chồnglên xác lính của ta. Trở ngại lớn là chúng tôi không còn nhiều đạn, không cótiếp viện, không có phi pháo yểm trợ, mọi liên lạc đều bị cắt đứt... nếu tiếptục giao chiến chắc chắn sẽ bị địch tiêu diệt !

Lợi dụng khoảnh khắcáp lực địch tương đối yếu, tôi cho đại-đội 2/344 thành lập nhiều tổ tam"tam chế", áp dụng cá nhân chiến đấu và chỉ xử dụng lựu đạn đánh địchđể bọn chúng không phát hiện chúng ta ở đâu, vừa đánh vừa lui dần do đó bọnchúng không dám bám gắt, nhưng cho dù đánh kiểu nào đi nữa thì chúng tôi cũngkhông còn đủ đạn dược để cầm cự, địch đông cấp tiểu-đoàn hoặc nhiều hơn có thểcả trung-đoàn 33 Quyết-thắng ở đây. Trung-úy Vương đại-đội trưởng bị thương,ngực thấm máu nhưng không nặng vì tôi thấy anh còn di-chuyển được, chúng tôiđau lòng khi thấy anh em mình bị thương nặng nằm chờ chết mà không cứu được !
Bọn việt cộng bắt đầupháo, trong rừng bị pháo rất nguy hiểm... đạn có thể chạm nhánh cây phát nổ vàmảnh đạn phủ chụp xuống... nhưng hình như bọn việt cộng không biết rõ đội hìnhvà hướng lui quân của ta nên đạn pháo nổ chệch hướng. Chiến trường khói lửa mịtmùng, đạn pháo phá nát một vùng rộng lớn mà phần nhiều nổ chận đường rút luichúng tôi về hướng căn cứ 6 Bình-Tuy, tôi chợt hiểu, bọn việt cộng đoán biếtđược hướng lui binh của ta, tôi ra lệnh đổi hướng, tất cả nhắm hướng căn cứ 2thuộc Long-Khánh rút thật nhanh. Chúng tôi nương theo những con suối cạn rộngkhoảng 2 thước và sâu tới ngực... cố chạy thật nhanh, đến 02:00 giờ trưa khôngcòn nghe tiếng súng của việt cộng, tôi biết chắc bọn chúng bị lừa nên vẫn tiếptục truy kích chúng tôi theo hướng căn cứ 6.

Hết sức thận trọngchúng tôi tiếp tục di chuyển về căn cứ 2. Đến 04:00 giờ chiều, cánh quân đi đầubáo "có người", tôi cho dàn quân thật nhanh chuẩn bị trận đánh cuốicùng vì đạn dược người có người không và tất cả hầu như kiệt sức.

Đại-đội 1/344 báokhông phải việt cộng mà là người dân đang bắt cá ở một con suối, anh này chobiết ở đây thuộc căn cứ 2... từ đây ra đó hơn một cây số. Dân số ở đây khoảng10 ngàn nhưng đã di tản chỉ còn lại vài trăm người (căn cứ 1 và căn cứ 3 đã lọtvào tay việt cộng cách đây vài ngày), nơi đây vẫn còn lính Quốc-gia. Thật khôngcó nỗi vui nào bằng, bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến hết, chúng tôi uà xuốngdòng suối trong xanh như một đàn vịt. Sau khi uống và lấy nước xong, tôi thậntrọng cho một toán lính cùng người dân bắt cá đi trước, hai cánh quân theo saukhoảng cách hai trăm thước. Không bao lâu chúng tôi đã nhìn thấy lác đác vàimái nhà... tôi cho lịnh toán quân đi đầu bắn một quả chiếu sáng dù và giươngcao lá cờ Quốc-gia để tránh ngộ nhận. Phía bên trái cách chúng tôi vài trăm métlà lá cờ vàng ba sọc đỏ đang tung bay trong gió chiều lồng lộng, lá cờ thật oainghiêm, lòng tôi rộn lên một niềm vui khôn tả ! Nén xúc động... tôi cho lệnhrải quân thật mỏng, canh gác cẩn thận.

Dân chúng chạy ra xemrất đông, họ mang cả bắp, khoai mì, khoai lang luộc, mì gói và cả cơm mới nấumà gia đình chưa kịp ăn đem cho lính... tình Quân Dân như thế đó ! Người línhcảm thấy nhỏ bé trước tình cảm đồng bào dành cho họ !!! Trong số đồng bào còncó vài anh lính của căn cứ 2, tôi theo họ vào gặp vị Thiếu-tá Tiểu-đoàn trưởngđể xin nhờ máy gọi về Tiểu-khu Bình-Tuy. Tôi nhận được lịnh ngày mai 23/03/1975trực-thăng sẽ bốc chúng tôi. Kiểm điểm quân số chúng tôi còn 200 người, như thếchúng tôi đã mất 40 người trong trận chạm súng ngày hôm qua và sáng nay vớiviệt cộng.

(Vài ngày sau tôi đượcbiết cánh B của tôi gồm có đại-đội 3/344 của Đại-úy Trương-Kiêm trực thăng tìmthấy trong rừng và bốc về Long-khánh tổng cộng 36 người. Đại-đội 4/344 củaĐại-úy Nguyễn-châu-Luyện về được căn cứ 5 tổng cộng 15 người. Tiểu-đoàn 369/ĐPphòng thủ bên trong Chi-khu về được 99 người, Thiếu-tá Xinh Chi-khu trưởng chỉmột mình. Ông về tới căn cứ 6 thuộc Bình-Tuy cách xa Hoài-Đức 70 cây số. RiêngTiểu-đoàn 2/43 của Sư-đoàn 18BB tăng phái cho Hoài-Đức về được Long-Khánh,thiệt hại không rõ. Như vậy Tiểu-đoàn 344/ĐP của tôi thiệt hại hơn phân nửa,khoảng 260 người).

08:00 giờ tối ngày23/03/1975, chúng tôi về đến Bình-Tuy, tôi vào trình diện Đại-tá Trần-bá-ThànhTiểu-khu trưởng (Ông hiện định cư tại nam California, trước khi về BT làm Tỉnhtrưởng kiêm Tiểu-khu trưởng, Đ/tá Thành là Trung đoàn trưởng Tr/đoàn 48/18BB).Tôi trình bày sơ lược tình trạng hiện nay của tiểu-đoàn, sau đó Ông bảo tôi vềnghỉ ngơi mai sẽ tính... nhưng khi ra tới cổng tiểu-khu tôi bị ngất xỉu phảichở vào bệnh viện vì kiệt sức. Đêm đó, bạn tôi Đại-úy Lê-Hùng tiểu-đoàn trưởngTĐ341/ĐP vào bệnh viện mang tôi về hậu-cứ của anh ấy cho y-tá chăm sóc mặctiếng phản đối của nhân viên bệnh viện và Bác-sĩ (anh Lê-Hùng hiện đang cư ngụtại nam California).

Địa-phương quân"đứa con không được chăm sóc của QLVNCH" người dân thành thị hầu nhưquên lãng họ, đã chiến-đấu trong cô-đơn, trong điều-kiện trang-bị và hỏa-lựcyểm-trợ quá thiếu thốn... nhưng họ vẫn phải chiến-đấu để bảo-vệ Tổ-quốc và đồngbào, chiến-công không ai biết và cái chết của họ cũng lặng lẽ theo tiếng kèntruy-điệu. Tiếc thương họ có chăng là những tiếng nấc nghẹn-ngào của vợ, con vànhững người thân thuộc, của những đồng đội đứng cúi đầu với dòng lệ tiếc thương!

"Họ là những anh-hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can-đảm và tận tình giúp nước !”
(thơ Giáo-sư Nguyễn-ngọc-Huy)

Viết tại San Jose,California cuối Thu 2011
Lê Phi Ô
Tiểu-đoàn trưởngTĐ344/ Địa phương
Tiểu-khu Bình-Tuy -(cựu tù A20).