7/4/11

LỄ TRUY ĐIỆU


LỄ TRUY ĐIỆU CỐ ĐẠI ÚY
NGUYỄN NGỌC BỬU VÀ
5 SĨ QUAN TRỐN TRẠI BỊ GIẾT

*Cố Đại úy Nguyễn Ngọc Bửu khóa 25 trường Võ bị Quốc Gia là một Sĩ quan gan dạ, một cấp chỉ huy thương yêu binh sĩ dưới quyền... (Cựu sinh viên Võ Bị Đà Lạt khóa 23 Nguyễn Trọng Việt)
* “Tôi bị CSVN bắt giam 17 năm, tôi nghĩ rằng mình gặp thương đau và bất hạnh, nhưng qua tấm gương cố Đại Úy Nguyễn Ngọc Bửu và những chiến hữu của chúng ta đã bị quân thù giết dã man thì đấy mới chính là những hy sinh cao cả không thể quên được..” (Phan Tấn Ngưu, Chủ Tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam Cali).

CẶP LỰU ĐẠN "MINI"


A20 Nguyễn Văn Học


       Miền Nam, kể từ đầu tháng tư, trời hình như trở nên nắng gắt, có lẽ để chuẩn bị chào đón mùa mưa sắp tới, đâu đây cũng đã có rải rác một vài cơn mưa sớm.  Những cơn mưa đầu mùa như thúc dục nhà nông thêm tất bật dọn đất, ruộng, cho kịp thời vụ. Suốt một cánh đồng rộng, dài mút tầm mắt, những cột khói đốt đồng chừng như cũng mệt mỏi, rã rời vì nắng hạ, đang uể oải uốn mình bay lên nền trời trong vắt, cánh đồng về chiều bỗng trở nên vắng lặng, khi những người nông dân âm thầm thu dọn đồ đạc trở về.
       Gian quán đầu làng của Bà Ba lần lần đông khách, dân trong làng thường tụ tập vào buổi chiều tà.  Khi công việc đã tạm ổn cho một ngày, trên đường về nhà, họ gặp nhau uống ly cà phê, ly chanh đường giải khát, sau một ngày làm việc vất vả, trao đổi với nhau vài ba câu chuyện thời sự, chiến sự, chuyện làng xóm, chuyện mùa màng v..v.. Một số người có máu Lưu Linh, rủ nhau "lai rai ba sợi" cho ấm lòng, trước khi về nhà dùng bữa cùng gia đình. 

Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết


DUY LAM

Tặng Nguyễn Khoa Doánh với lòng tiếc thương vô hạn,
người bạn tù chết tại trại Hà Nam Ninh 1981.


Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Nắm không buông như níu kéo cuộc đời
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Người bạn tôi vừa rời bỏ cuộc đời
Chỉ vừa đây trong tiếng rên hấp hối
Anh cầu xin tìm hộ cho anh
Một chiếc kẹo vì anh thèm chất ngọt
Nhiều tháng năm chỉ chờ đợi lúc này
Ý nguyện ấy anh chỉ còn dám nói
Khi thịt da cái lạnh đã ngập tràn
Lũ chúng tôi cùng bạn anh chạy loạn
Trong trại tù miệng rối rít van xin
Một cái kẹo nhanh nhanh cho người bạn
Sắp ra đi mau mau kẻo muộn rồi
Trong tuyệt vọng vẫn thoáng niềm hy vọng
Mang kẹo về kịp lúc anh lâm chung
Đầy hoan hỉ tôi nhìn anh ngắm nghía
Trong bàn tay rộng mở kẹo vô tri
Nụ cười nhẹ trên đôi môi nhợt nhạt
Anh thầm thì ồ thú quá sẽ ăn
Chiếc kẹo này khi khỏe vui chi lạ
Sao nỗi vui chỉ nhỏ bé thế thôi
Rồi anh chết không kịp ăn chiếc kẹo
Nằm lặng yên trong những ngón tay xanh
Chúng tôi liệm anh im lặng nặng nề
Làn vải thô lớp quần áo thuở nào
Khi tôi cậy tay anh bàn tay mở
Chiếc kẹo rơi nằm nhẹ trên ngực anh
Đầy cẩn trọng trong nỗi niềm kinh hãi
Tôi nhặt lên để nhẹ cạnh bát cơm
Bên quả trứng món quà cho người chết
Chẳng bao giờ anh được nếm vị hương
Rồi chúng tôi tất cả đều nức nở
Nước mắt tuôn cứ mãi mãi chẳng ngừng
Khóc cho anh cho chúng tôi tất cả
Biết khi nào đến lượt biết khi nào
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Chẳng kịp ăn khi từ giã cuộc đời.

DUY LAM

(Tin Saigon Times)

Nhạc phẩm: "Chiếc Kẹo Nhỏ Trong Bàn Tay Người Chết"

Thơ: Duy Lam – Nhạc: Xuân Điềm – Trình bày: Đức Tuấn




Anh Xuân Điểm kể về bài tù khúc “Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết”:

“Nhà văn Duy Lam từ Bắc chuyển trại về Nam có tặng bài thơ nội dung nói về cái chết tức tưởi của đại tá Nguyễn Khoa Dóanh là bào đệ của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.

Nhà văn Duy Lam là người tù canh giữ trạm xá nơi đại tá Nguyễn Khoa Dóanh kiệt sức đang nằm chờ chết. Hôm ấy, đại tá Dóanh thều thào với nhà văn Duy Lam rằng ông thèm ngậm một viên kẹo trước khi lìa đời. Sau khi tìm được kẹo về thì đại tá Dóanh cầm chặt viên kẹo trong tay tỏ vẻ vui mừng nhưng không ngậm được nữa vì giờ chết gần kề. Khi nhà văn Duy Lam vuốt mặt lần cuối cho người bạn tù thì viên kẹo rơi ra khỏi tay và nằm trên ngực áo, Ôi! Thương thay, đến chết mà ước mơ thật nhỏ bé cũng không thành sự thật”. (Xuân Điềm)



ngược về vĩ tuyến






Phong Điền

hôm ghé lại Phong Điền trời còn hanh nắng
thiết lộ im nằm theo nhịp thở thời gian
nhà xưa ven đường, dăm cành gãy khô khan
trơ trọi, gậm đau những căm hờn sót lại


Mai Lĩnh

qua Mai Lĩnh, lớp rêu xanh màu tê tái
những lỗ châu mai còn tức tưởi, cô đơn
là gió đông hay hồn tử sĩ chập chờn
ai gọi trong chiến hào chưa phai dấu máu
trời kéo mây đen, trời đè lên cổ tháp
vạch cỏ lau cố tìm lại dấu ngày xưa
giọt máu khô hay rêu mốc bám mùa mưa
ôi! Mai-Lĩnh đang im lìm trong mộ địa


Mỹ Chánh 

Con sông vắt ngang, cây cầu nằm trơ đó
nước lũ một màu đỏ đục của bi thương
Mỹ Chánh âm vang, danh gọi một chiến trường
mùa hè, những khởi đầu trên con lộ máu
thoảng trong gió tiếng ầm ầm bầy đạn pháo
mưa bay bay nghe âm ỉ tiếng khóc than
gò đống xác người, chiến tích xếp hàng hàng
sông Mỹ Chánh chưa hết tanh mùi chết rữa

ta về đây, bạn bè xưa còn dăm đứa
sống lạc loài với mảnh đạn cũ trên thân
tuổi chiến trường già hơn tuổi để thành nhân
rồi tàn tạ khi tan hàng về quê cũ
dòng Mỹ Chánh còn như thương ngày chiến trận
bè bạn ơi! tóc đã bạc vẫn còn đau
Mỹ Chánh ơi! ta không dám mở miệng chào
đi lầm lũi, khóc cho một dòng sông chết



Thạch Hãn


























phong ba ngày trước, xác xơ thành quách cũ
trời lập đông làm rét buốt triệu anh linh
tường cổ lam nham dấu đạn, đứng nghiêng mình
máu ai đã chảy đầy con sông Thạch Hãn

Quảng Trị co ro trong đêm trường than oán
ta co ro quanh quẩn góc chiến trường xưa
nhà thờ Long Hưng pháo giặc phá ngày mưa
chết đứng bao năm rồi còn khoe dấu đạn
mùa hè khô trên con sông như lòng chảo
hứng hết đạn bom bên thành cổ quặn đau
ai nghe chăng theo ngọn sóng vỗ rì rào
lẫn theo gió tử thần đang vang tiếng hú

bạn đưa ta ngồi trên bến ghe ngày cũ
nơi vạn xác người chồng kín cả khúc sông
hôm nay lũ về, lũ của mỗi mùa đông
chắc chưa trôi hết nắm xương còn sót lại
ta đứng yên ngó dòng sông cuồn cuộn chảy
trong bạn bè có mấy đứa chết ở đây
chết mấy mươi năm, chết lạnh dưới mộ nầy
chỉ có nước, nước vổ về thân mất nước
bóng vó câu quân qua thành Đinh Công Tráng
như mờ mờ trong bom đạn nổ đâu đây
Quảng Trị ơi! Thạch Hãn hỡi! Cổ thành nầy
xương, máu, giang san còn gì khi tan trận?


Ái Tử 

câu hát cổ vang trong đầu bên sông trắng
miếu đền xưa trên cát vắng xương còn phơi
dòng nước nghẹn ngào trôi theo tiếng à ơi
chiều sương lạnh nổi da gà qua Ái Tử
đồn lũy bao năm không còn gì dấu vết
nước mất nhà tan thành quách biết tìm đâu
một cái tên, từ đất chúa thuở công hầu
nghe văng vẳng giữa dòng trôi trong màu cát
ta buồn bã đứng bên cầu nghêu ngao hát
đất hỡi ! linh thiêng, đồi hỡi ! dựng cơ đồ
chinh chiến vạn lần, cồn cát vẫn nhấp nhô
như mộ vô danh của những người chết trẻ



Đông Hà 


cũng nhà, cũng chợ, cũng quán nghèo cóc ổi
cũng âm u rờn rợn kiểu của Đông Hà
băng ngang cây cầu con sông nhỏ chạy qua
nhìn đất chết mới thấy thương thằng ở lính

Đông Hà, vùng đạn bom nhiều hơn cây cỏ
nơi trùng trùng không đếm hết bãi tha ma
hai mươi mấy năm, hết lớp trẻ đến già
vùi trong đất để thành người đi giữ nước

bây giờ mất, nói thế nào cũng lỡ mất
bây giờ đau, kệ, đau thêm cũng chẳng sao
chiều qua Đông Hà, ta thăm trước, thăm sau
thăm luôn cả những nhục, vinh còn ở đó

châm điếu thuốc tưởng tới người ra đi trước
rót một ly, nghe nóng mặt tiếc ngày xanh
đứng giữa Đông Hà nhìn quá khứ tan tành
trong căm hận muốn chửi thề dăm ba tiếng

cũng giống như mi, ta không còn vốn liếng
không có màu cờ để phủ lúc ra đi
chỉ là tạt ngang lượm lặt một chút gì
mà ngần đó thời gian dập vùi tàn nhẫn



Hà Thanh

 tới cầu Hà Thanh ta giật mình nhớ lại
giọng hát của một thời xa lắc xa lơ
cũng chỗ nầy bạn ta chết lúc cuốn cờ
xác bỏ lại và được thiêu bằng bom lửa
ba mươi lăm năm với cuộc đời thối rữa
ta giống một thằng hề đi tới, đi lui
qua những địa danh nầy ta thấy không vui
chỗ nào cũng có bạn bè xưa nằm xuống
Quảng Trị! có phải ta về thăm quá muộn
như những con sông thoi thóp đợi đò ngang
nghiến răng trên vết thương cũ, buổi tan hàng
chảy đau đớn, khô dần ngang đường số một



Gio Linh


trên đất chết, cây khô, vườn không, nhà trống
ta nhìn Gio Linh thay áo mới mà thương
một chút phấn son không dấu nỗi đoạn trường
khuôn mặt lỗ chỗ còn đầm đìa nước mắt
về Gio Linh còn nghe bước chân chạy giặc
còn thấy trẻ thơ ngơ ngác đứng bên đường
bom tấn, pháo bầy cày xới chẳng tiếc thương
Gio linh chết, cái chết từ từ, đau xé
chợ Cầu già nua lưng còng chân nứt nẻ
nuôi một Gio Linh tàn tật mấy mươi năm
ôi! hôm nay ta đứng ngó, ngó thật gần
sờ da thịt Gio Linh tanh mùi máu giặc
đất khóc, người rên, cỏ cây nằm úp mặt
con trâu cái cày bương bã chạy về Nam
Gio linh chưa quên nửa thế kỷ lầm than
giờ cay đắng dâng xác mình ngày giặc tới





nguyễn thanh khiết
11-2010

(Nguồn:  http://nguyenthanhkhiet.wordpress.com/)



22/3/11

Tìm gặp




Tống Phước Hiến


Tôi đã nếm những gì là vinh nhục
Nhục và vinh đã thử ghé vào đời
Vinh thì nhỏ, nhục đau nhiều vô kể
Qua nhục vinh tôi thấy được mặt người.

Xin cám ơn đời cho tôi dâu bể
Nỗi buồn vui in bằng dấu chân di
Mỗi vấp ngã thêm một lần chợt ngộ
Mỗi đoạn đường thêm viên gạch từ bi

Cây trỗ nhánh, đâm cành đơm hoa nở
Đời đổi thay như gió nhạt bâng khuâng
Cũng có lúc thử xòe tay bắt nắng
Nắng vuột bay thơ thẩn nhập trầm luân.

Đấng sinh thành, mãi miết đi rất sớm
Không có gì để được gọi trắng tay
Từ độ ấy, ngẩn ngơ cùng gió cát
Mắt vẫn thường ướp lệ dưới mi cay.

Tuổi hoa bướm chỉ nghe bằng ngôn ngữ
Màu tương lai bầm tím ngát chân trời
Tôi ngơ ngác đau vết roi nhân thế
Viết đời mình bằng những nét chơi vơi

Cây cỏ úa thèm nước sông hờ hững
Sông lững lờ xa cỏ úa bâng khuâng
Đá thầm hỏi giòng sông trong hay đục?
Sông thở dài tự hỏi đục hay trong !

Đời lẩn thẩn quẩn quanh màu trong đục
Năm tháng dài đuổi bắt chuyện đục trong
Rồi mệt mỏi đếm dấu chân trên cát
Bỗng vụt cười huyền ảo những ước mong,

Chân đã bước, tay ôm là đã sống
Tóc đổi màu pha dấu bụi thời gian
Mắt bảo chân cuộc đời là phía trước
Nhưng lắm lần chân lạc bước lang thang.

Đêm hôm qua, trườn tay rờ huyệt mộ
Nơi tôi về và từ đó tôi đi
Tôi bỗng thấy kim thời gian xoay ngược
Thấy đời mình trôi giạt giữa mê si

          Sinh nhật lần thứ 67 – 23.08.2010
            Tống Phước Hiến



cũng từ chuyện Tháng Ba Gãy Súng



Tưởng Niệm Cao Xuân Huy

ngồi đây nơi ngã ba tắt nắng
cô hàng ơi cho một cốc xây chừng
nâng chén muộn phiền đợi bạn
như có lời của gió mùa sang
gọi từ nghìn trùng xanh thẳm
xúm xít quanh đây
những hồn ma thức dậy
dưới trời chiều loang loáng máu tươi
tiếng ai điên dại nói cười
tháng Ba cửa Thuận An bẫy chết
những người lính Kình Ngư
Thủy Quân Lục Chiến
màu áo hoa rừng đẫm máu
giày trận rách bươm
xương tàn cốt rục
những mộ phần đào vội lấp nông
xác người lính Miền Nam
thua trận tháng Ba
tháng Ba cửa Thuận An
những bia thịt bấy nhầy
trước họng súng kẻ thù
lính, dân dồn cục rối mù
chiến trường nước mắt hận thù anh em
ôi những cái chết hào hùng
chưa một lần được biết
của người lính vô danh
THÁNG BA GÃY SÚNG đoạn đành
bốn bề biển nước loanh quanh chết dần
giữa bến chiều Cai Hạ
sau lưng kẻ thù rượt tới
vũ khí trên tay mà thêm nặng nợ
ĐẠN KHÔNG CÒN
lấy thân mòn chống lại kẻ thù
như con rắn bị chặt đầu
chiếc đuôi quẩy đạp ngập tầu máu xương
thế rồi giữa biển chiều thoi thóp
địa ngục vỡ toang
một người ngồi lại trên bờ cát *
giòng người tiếp tục chạy
một người nữa ngồi lại trên bờ cát
giòng người vẫn chạy
và những người khác nữa….
kết thành vòng tròn chết
quả lựu đạn nổ bung ở giữa
máu và xác người tung toé
đỏ rợn người nơi bãi cát trắng tươi
ôi Tổ Quốc tôi
bi thương man rợ
những người lính bơ vơ
đã chết một ngày như thế
những người lính cùng đường
đã bị bội phản
bán đứng thảm thương
bị bỏ lại giữa đường
cho kẻ thù tập bắn bia người
ngoài khơi tầu bè qua lại
trong bãi cát lầy
những vòng tròn chết vẫn dài ra
những tiếng sóng êm đềm vẫn vọng từ xa
giữa tiếng súng
tiếng lựu đạn
nổ tung trời cõi chết
một trời vô vọng
giòng người bỗng chậm dần ngong ngóng
rồi ngưng lại
đụ mẹ sao không chạy tiếp *
chạy con mẹ gì nữa cha ơi
ôi cửa Tư Hiền đã quá xa vời

CÁI TRỌNG TY

* trong ngôn ngữ Tháng Ba Gãy Súng




18/3/11

VIỆT- KIỀU


                                                                        Tống-Phước-Hiến
                                                                                                              *

    Cuộc chiến-tranh vừa qua, nhiều người lầm tưởng đã kết thúc vào 30.4.1975 và bị đánh giá là cuộc nội-chiến Nam Bắc, mà Cầu Hiền-Lương vắt qua giòng sông Bến-Hải, trên Vĩ-tuyến 17 là biểu-tượng cho một giai-đoạn xót-xa của lịch-sử. Thật ra, cuộc chiến-tranh đó vẫn được tiếp-diễn, nhưng theo thế-trận khác và ý-nghĩa cũng được nhận-định lại đúng đắn hơn !

Sau 30.4.1975 Cộng-sản phơi bày chân-tướng là một lũ phỉ quyền tham ác lưu-manh; nên Người Quốc-Gia giành đoạt được chính-nghĩa và tiến-hành cuộc chiến-tranh giải-phóng Dân-tộc hầu có điều-kiện đưa đất-nước đến phồn thịnh, nhân-dân được tự do. Trận quyết đấu nầy, người Quốc-Gia đang thắng-thế, từng bước chứng-minh Cộng-sản Việt Nam là tội-phạm nhân-loại, là tội-đồ Dân-tộc. Nhưng bỗng nhiên hàng-ngũ chúng ta có hiện-tượng giao-động, địch biết tránh né, thoát hiễm. Thì ra, chúng ta đang bị một loại “nội thù” rất nguy-hiểm mà mọi người thường gọi bằng tên nghe khá hiền lành “Việt-kiều” !.


TẠ ƠN MẸ


Quán Lá cũng xin giới thiệu cây viết Nguyễn Thụy Giáng Sinh là ái nữ của A20 Nguyễn Văn Học. Để chúng ta thấy rằng A20 “hổ phụ sinh hổ tử”.


TẠ ƠN MẸ


Vài dòng tâm sự với các bạn đồng trang lứa, về những người Mẹ của chúng ta.

Nguyễn Thụy Giáng Sinh.



        Năm nay tôi vừa tròn ba chục tuổi, sống ở Mỹ gần mười ba năm, đã có chồng và một con, về công việc học hành cũng như làm ăn sau ngày ra trường. Tôi cảm thấy không có gì phải phàn nàn cuộc đời cả - Tôi biết, sở dĩ cuộc đời tôi được mọi chuyện tốt đẹp như ngày hôm nay, ngoài sự an bài của Thượng Đế, còn có sự tài bồi, lo lắng của cha mẹ, nhưng đặc biệt hơn hết là của Mẹ - Tôi chỉ dùng một tiếng Mẹ, mà không dùng mẹ tôi, vì e rằng các anh chị cho là tôi giành hết mẹ chăng - Tôi có tới sáu anh chị em, và người nào trong chúng tôi, cũng đều có những ý nghĩ, tình cảm riêng thật đậm đà đối với Mẹ - Điều này chắc hẳn anh chị em chúng tôi cũng giống các anh chị mà thôi - Riêng tôi cảm nhận được tình mẹ đối với tôi thật bao la, bát ngát, có thể nói hầu như lúc nào cũng bao trùm hết cuộc đời tôi, khi thì bàng bạc như sương khói, lúc lại nồng nàn, ấm áp như nắng xuân. Từ khi có trí khôn, tôi chỉ biết có Mẹ, và duy nhất chỉ một mình mẹ - Mọi chuyện tôi đều trông cậy, phó thác nơi Mẹ, từ khi còn ẵm ngửa, đến lúc hiểu biết và cả khi đã khôn lớn.

13/3/11

Thư Gửi Anh Em A-20 (bài chót)



A20 Vũ Trọng Khải 

Anh Em A-20 Thân Quý.

Thưa Quý Anh,

Đến bài này, tôi xin vào ngay sự việc đã hứa với Quý Anh và Anh Phạm Kim Minh, và xin một lần nữa cảm ơn Anh Phạm Kim Minh đã chuyển bài viết của Ông Nguyễn Đình (ngoài Emailgroups của chúng ta ).

Đó là việc liên quan đến lá thư của Ông Nguyễn Đình Bình, cựu Chánh Thanh Tra Giám Sát Viện của VNCH, nói về cái chết trong tù của Đại Tá Sơn Thương.

Thưa Quý Anh,

Trước đây vài năm , khoảng trên dưới 7 năm gì đó, tôi không nhớ rõ.

Nhân dịp gặp một người Bác Họ của tôi, Ông có đề cập đến dư luận cho rằng Đại Tá Sơn Thương chết trong tù là tại Vũ Thành An (VTA).

11/3/11

Thư gửi Anh Em A-20 (bài 1)



A20 Vũ Trọng Khải

Anh Em A-20 thân quý,

Đích thực, các Anh là những Anh Em Thân Quý của tôi.

Vì thế hôm nay tôi cần phải thưa cùng các Anh đôi điều, mà đáng lẽ, tôi đã phải trình bầy từ lâu … từ khi tôi phản bác bài viết  “CON NGƯỜI TA CÓ DUYÊN SỐ HAY KHÔNG” của A-20 Toại Chí.

Rồi đến việc tôi chuyển lời mời Anh Em A-20 San Jose tham dự lễ tưởng niệm Chiến Sĩ Hoàng Sa cùng buổi nói chuyện của Luật Sư Nguyễn Thành.

Cả hai sự kiện này tôi đều bị nhiều Anh lên tiếng trách móc (tôi còn lưu giữ những Email ý kiến của Quý An ).

7/3/11

Ngậm Ngùi Tuổi Hạc

  
Chia tay nhau từ những năm sau 1980, A20 Nguyễn Văn Học đã bay một mình giữa trời gió bão
Hôm nay anh  về Quán Lá, căn nhà của những cánh chim đã mỏi, bằng bao năm chinh chiến, bằng bao tuổi ngục tù, A20 Nguyễn Văn Học đã viết lại trăn trở của mình từ những năm 2008, anh viết cho anh, cho bè bạn, cho thế hệ mai sau.
 Quán Lá mời các anh lắng nghe tiếng kêu gần như tuyệt vọng của con hổ ngày xưa trên chiến trường đẫm máu, tiếng kêu dưới màu cờ mà anh đã một đời dâng hiến cho đến ngày buông tay, Hãy lắng nghe tâm sự của một A20 từng chia với chúng ta ngọt bùi suốt những tháng năm trong Trại Trừng Giới .


Ngậm Ngùi Tuổi Hạc

A20 Nguyễn Văn Học


       Cuộc đời tỵ nạn đã là những chuỗi ngày bàng bạc nỗi buồn - Đến mùa Quốc Hận, nỗi buồn tăng thêm cường độ, vì những kỷ niệm đau xót lại trở về - Đầu óc cũng trở nên lãng đãng bởi những suy tưởng về ý nghĩa cuộc đời.

       30 tháng Tư năm 1975 đến 30 tháng Tư năm 2008, đã qua 33 năm - Những chàng trai phương cường, những thiếu phụ xinh tươi thuở ấy, tuổi ngoài ba chục, đến nay đã tròm trèm bảy chục - Gần bảy chục tuổi của các ông, bao gồm cả thời gian đại hạn, khổ sai trong lao tù cộng sản, đa số bề ngoài cũng đã hom hem lắm lắm . Trong những người hom hem đó có tôi - Chuyện này không làm tôi buồn, vì bè bạn, nhiều người giống mình, nên gặp nhau, chẳng có gì lạc lõng, cứ vui cười thoải mái.

Thư cho A.20



Thưa tất cả các Niên Trưởng, Huynh Trưởng và anh em A.20,

Tôi không phải là người biết viết lách như anh Alpha Vũ Ánh, như Bùi Đạt Trung (Điên), như anh Tống Phước Hiến, chị Lê Thị Xuân (Tống Phước Hiến phu nhân) hoặc ngay cả cháu Tống Phước Xuân Hà (con gái út của anh chị Tống Phước Hiến), và một số anh em khác viết rất hoa mỹ và làm cho người đọc rung động.

Nhưng tôi xin đến với quý vị trong Trại Trừng Giới A.20 với tất cả tấm lòng của tôi.

Tôi nhờ Phật độ nên “được” về tương đối sớm (cuối năm 1981 sau 2 năm 10 tháng tại A.20) cùng toán với anh Trung Tá Ngân (không tin tức gì nữa sau khi anh bước xuống ga Nha Trang rồi hình như đi vượt biên rồi mất tích luôn trong khi toán còn lại xuôi Nam).

DI HUẤN TRONG HUYỀN THOẠI



Trong thế giới của chúng ta, những người đi trước thường để lại dấu ấn cho thế hệ đi sau .
Chính nó dẫn dắt cái thế hệ đó đi theo con đường đã hướng. Trọng trách mà chúng ta vác trên vai không phải là chỉ khu xử với nhau, nhìn nhau trong cái nhìn của một thời tù ngục không thôi. Ngoài cái trách nhiệm cho chính chúng ta, còn một trách nhiệm không sao quên bỏ ... Những người trẻ..
Quán lá xin trân trọng giới thiệu bài viết của Tống Phước Xuân Hà con gái của A20 Tống Phước HiếnCựu CSQG thiếu uý Lê Thị Xuân, bài được viết khi cháu lên 16 tuổi.

---------------
  
DI HUẤN TRONG HUYỀN THOẠI

                                               Tống Phước Xuân Hà

Tôi nhớ thuở còn thơ dại, ba tôi hay kể cho nghe những câu chuyện huyền thoại trong lịch sử Việt Nam. Trong những câu chuyện ấy, có một chuyện thật đặc biệt mà tôi khắc ghi trong lòng, đó là chuyện về “Thánh Gióng”. Tôi thích, vì câu chuyện này mang tính chất thần kỳ.
 
Chuyện kể lại rằng: Vào đời Hùng Vương thứ 6, tại làng Phù-Đổng, thuộc bộ Vũ-Ninh, Nước Văn-Lang (tên nước Việt-Nam thời bấy giờ) có một cậu bé bị dị tật bẩm sinh vì đã ba tuổi mà còn nằm nga; không biết nói, không biết cười, không biết lật, không biết bò; nhưng sau đó lại trở thành một vị Anh Hùng Dân Tộc.

 Tới khi tôi lớn lên, ba tôi mới giải thích cho tôi hiểu rõ hơn mục đích của câu chuyện.  Hôm nay, tôi xin được chia xẻ với các bạn những gì tôi đã học được từ câu chuyện thần thoại này.
 
Theo tôi thì trong câu chuyện Thánh Gióng, Cha Ông ta đã để lại lời di huấn như sau :


5/3/11

Tâm tình với các đồng đội A-20 Xuân Phước



A20 Vũ Ánh

Tôi không phải là người đầu tiên được Hải bầu báo tin cho biết người bạn đời của anh đã ra người thiên cổ ở tuổi 60. Cái tật ít nghe lời nhắn trên cell khiến tôi chùng xuống vì ân hận khi vào sáng tinh mơ, Phạm Đức Nhì ở Galveston gọi cho tôi báo hung tin. Tôi không gọi cho Hải bầu, vì tôi biết trong giờ phút ấy, những lời an ủi chẳng có tác dụng gì giữa cái mất mát to lớn của người bạn tù thân thiết của mình. Hải làm ở gần tòa soạn tôi, thỉnh thoảng anh em gặp nhau để bàn về chuyện tổ chức gặp mặt vào Tháng Bẩy này. Tôi biết hoàn cảnh của Hải bầu rất khó khăn, tôi lại không giầu có gì, nhưng không hiểu sao vào giây phút khẩn cấp ấy tôi nghĩ  những anh em nào đã chia nhau từng miếng khoai hà, từng chén canh đại dương, canh giây thép gai, mắm đã có giòi trong những bữa cơm tù, từng nhìn thấy cảnh một bi thuốc lào mà bốn năm đứa chuyền tay nhau kéo, từng vá cho nhau những miếng vá trên các bộ quân phục đã bắt đầu mục rách… có thể giúp tìm ra một giải pháp.

BÔNG HỒNG TRÊN VẾT DẦU LOANG


A20 Bùi Đạt Trung

Ngày buồn rồi sẽ qua đi, sinh hoạt Quán Lá cũng sẽ trở lại bình thường, nhưng dư âm vẫn còn đọng lại trong chúng ta với quá nhiều cảm xúc, tự hào và hãnh diện vì mình là “A.20”

Khi biến cố xảy đến cho gia đình Hải Bầu, một số A.20 xa gần thường liên lạc với “Bầu” rất lo lắng, quan tâm và chia xẻ…., lên net thông báo cho Quán lá, những chỉ có lẻ tẻ hồi đáp, hầu như gặp “bức tường im lặng” vì đa số không có xử dụng computer và không có theo dõi sinh hoạt Quán Lá qua email.

Lúc đầu Quán có vẻ thất vọng và muốn bỏ cuộc, sợ rằng sự tồn tại sẽ không còn bao lâu nữa, nhưng bây giờ mới thấy ý nghĩ đó hoàn toàn sai lầm.