A20 nguyễn thanh khiết
III. Đường đi không đến
Tháng 6 năm
1975. Tôi một mình vác ba lô lên núi Bà Đen. Nhà tôi chỉ cách 5 cây số là tới
chân núi. Trong thời giao chiến, tất cả những con đường dẫn vào đây toàn mìn
bẫy. Ít có ai đơn độc qua những đoạn đường chết chóc rình rập thế này.
Từ đầu tháng
6 năm 1975, người ta đã tháo dỡ mìn và có nhiều đoàn đông người tái tạo lại
những chuyến hành hương lên núi Bà Đen. Tôi có mặt trong đám đông này nhưng mục
đích của tôi thì khác hẳn. Tôi sẽ qua khỏi chùa Hang, tới núi Phụng, tìm những
khu giáp giới với Campuchia như Kà Tum, Khe Dol, thậm chí có thể quan sát đường
rừng đi về núi Cậu.
Với tấm bản
đồ thu nhỏ của vùng này mà tôi có được từ đống bản đồ hành quân của ba tôi ngày
trước. Cắt nó ra theo đúng đường XY của khu vực. Tôi hiên ngang đi hành quân
một mình.
Người ta như trẩy hội trên đường dẫn lên chùa Bà. Tôi gặp Dũng, nó nhỏ hơn tôi 2 tuổi dân xứ Vườn Điều, một địa danh trên đường đến đây. Thấy tôi đi một mình, hắn rủ tôi nhập bọn, cùng đi với hắn là cô vợ mới cưới tên Chung và Hoa bạn gái của Chung. Tôi nghĩ mình không gấp gáp gì và cũng nên tạo một tình huống bình thường tránh sự soi mói nếu có nên đồng ý. Chúng tôi tới chùa Bà. Thay vì theo đoàn người lên đỉnh, bốn đứa tôi cắm trại bên kia khu vực chùa, hướng về phía núi Phụng.
Đứng trên
dốc đá cao nhất, tôi nhìn chếch phía tây. Biên giới Việt Miên còn cách xa lắm,
Kà Tum ở hướng này, Khe Dol cùng một khu vực, còn Xa Mát lại chếch hướng Tây
Nam, cách nơi tôi đứng ít nhất là 40 cây số đường rừng.
Nói là cắm
trại, kỳ thật là chúng tôi chia nhau hai cặp, tựa vào những hốc núi nhỏ làm chỗ
qua đêm. Tôi không chính thức là hướng đạo sinh nhưng những kỹ thuật căng lều
trại, các thứ nút dây, tôi học ở bà chị khi còn bé, bà chị tôi là Chim Xanh kỳ
cựu của Hướng Đạo Cao Đài. Cộng thêm những tháng quân trường khi vào khoá 3/73
Thủ Đức, và bài học lóm từ mấy anh lính của ba tôi cùng với kinh nghiệm từ bè
bạn toàn là lính nên thấy an lòng trước hiểm nguy của núi non và tai ương của
rừng rú. Như tôi từng hãnh diện, tôi biết về lính nhiều hơn sách vỡ. Hai chỗ trú
quân của chúng tôi cách nhau hơn trăm thước, trên một vùng nhiều gộp đá tương
đối bằng phẳng.
Hoa có mấy
cây nến, đủ tạo một không khí ấm cúng trong đêm trường lạnh lẽo của rừng núi
Tây Ninh. Chuyện trai gái chẳng có gì ầm ĩ, nhưng bản thân tôi còn canh cánh
bên mình mục đích tối thượng. Đi tìm dấu vết của một đoàn, một toán quân nào đó
còn sót lại sau cú tan hàng. Chính vì thế, những tình cảm có được chỉ là thứ
dọc đường gió bụi, trang trí thêm hoa hoè cho chặng đường đi mù mịt của tôi.
Sáng hôm sau
viện lý do đi tham quan một vùng quanh núi, vợ Dũng không cho hắn theo, tôi thì
từ chối cho rằng Hoa là con gái leo trèo không tiện, vả lại cô đi dép da thì
khó mà qua được gai rừng. Vậy là tôi một mình một dao đi sâu vào núi.
Qua khỏi khu
cắm trại, lên tới 1/3 chiều cao của núi Bà Đen hơn 900m. Nhìn rõ mồn một tỉnh
lỵ Tây Ninh, thấy một đoạn phi đạo của phi trường ẩn sau một rừng cao su thưa.
Chỉ mới trên độ cao này mà tầm nhìn đã vậy, không trách được với cao độ đó giặc
pháo hoả tiễn 122 ly chính xác trên từng thước đất. Núi bà Đen có một bãi đổ
trực thăng trên đỉnh, có một anten bắt sóng cho cả một vùng Bình Dương, Chơn
Thành, An Lộc, phủ tới Hậu Nghĩa, Mỹ Tho. Mới thấy cái núi này nó quan trọng
cho vùng biên giới Tây Ninh như thế nào. Cả một vùng giáp biên giới nằm trong
tầm nhìn. Phía đông bắc là Bình Dương, Chơn Thành, rừng trải dài, rừng hun hút
sau khoảng đồng lúa trước mặt. Ngày trước trong trận An Lộc, Tiểu Đoàn 6 Nhảy
Dù tan hàng ở đồi Gió, theo lời kể của nhà văn quân đội Phan Nhật Nam trong Mùa
Hè Đỏ Lửa nhờ cây anten này mới có thể đánh một vòng trung chuyển để liên lạc
với đại bàng Lưỡng mà trung tá Đỉnh mới thoát được.
Bây giờ,
chẳng biết những nơi khuất trong tầm mắt này tại một vị trí chiến lược như vậy
còn có một đoàn quân nào sót lại không? Tôi vừa trèo núi vừa miên man nghĩ
ngợi.
Bất thần sau
tảng đá lớn, một cửa hang lộ ra, tôi lách mình chui vào. Cái hang càng vào sâu
càng lên dốc và rộng ra. Tôi không thể tưởng tượng được, trước mặt tôi là hai
dãy sạp nằm, bện bằng tre, tựa trên những đoạn gỗ rừng nối nhau, bông băng túi
cứu thương và mùi tanh của máu mủ thoang thoảng ở đây. Cái hang rộng nhưng sáng
nhờ một khe hở nhỏ và mặt trời chiếu từ sườn phía đông, ánh sáng trực tiếp đổ
xuống một khoảng rộng giữa hang. Tất cả những dụng cụ y tế, từ kim tiêm tới lọ
penicilline đều đóng nhãn Trung Cộng. Một vài manh áo rách màu cứt ngựa vất bừa
trên gộp đá, có cả những bi đông nước sản xuất từ Tàu. Vài cái thùng rỗng không
thật to, có lẽ chứa hỏa tiễn. Ngoài những trang bị y tế đó tôi còn nhìn thấy
một số vũ khí cá nhân hỏng hóc, những viên đạn AK rải rác quanh đó. Chắc có một
trận đột kích vào cái hang này. Đây chắc chắn là tiền trạm y tế của việt cộng
trong cuộc chiến, có thể nó được sử dụng cho đến ngày chiếm Tây Ninh.
Có một âm
thanh rất lạ. Tôi nằm áp tai xuống mặt đá, lắng nghe, hồi hộp tưởng như hy vọng
đã đến với mình, nhưng không, đó chỉ là tiếng nước chảy qua khe đá đằng sau
hang núi. Cái hang ngoằn ngoèo dẫn ra một chỗ lộ thiên về phía đông Núi Bà. Từ
đây quan sát cả một vùng thật rộng, có thể thấy Núi Cậu ở xa xa.
Dưới sự kiểm
soát chặt chẽ của biết bao đơn vị VNCH trên địa bàn tỉnh. Vậy mà, ở ngay trong
tầm pháo, chỉ cách tỉnh lỵ không hơn 5 cây số, lưng chừng Núi Bà có một trạm y
tế lớn như một bệnh viện dã chiến như thế. Thứ chiến tranh du kích đáng sợ
thiệt, vậy mới rõ ràng bắc quân theo đường mòn xâm nhập sát thành phố, không
thấy dấu vết của du kích địa phương tồn tại chỗ này. Mà cũng phải, việt cộng
nằm trong cái hang như vầy làm sao pháo binh phá được, chúng chui xuống dưới
chồng đá tảng cao mấy trăm thước bom nào đánh tới. Đột kích thì chúng rút êm
qua bên kia núi. Núi Bà Đen có biết bao hang hóc như thế này. Thiệt quá tệ, cái
núi chiến lược cho cả hai phe, phía nào cũng cố thủ, hậu quả chỉ có dân Tây
Ninh ăn đạn.
Đánh dấu
phương hướng, ngày hôm sau tôi lại một mình đi xa hơn, ngược hướng cái hang đã
phát hiện. Toàn là đường mòn với đám tre rừng gãy tan nát vì bom, những đám rễ
vắt ngang, những gốc cổ thụ ngả nằm ngổn ngang trên vách núi. Không có dấu hiệu
của bước chân nào đã đi qua, đám gai rừng đan chằng chịt, nhiều nhất là cây
găng, từ trên xuống dưới đầy gai nhọn, thứ gai dễ sợ mọc từng vùng rộng lớn,
thứ bẫy rập của rừng không thể vượt qua. Một cây găng nhỏ cao chừng hai thước
nhưng cành của nó duỗi dài cả chục thước và gai mọc chi chít quanh thân. Tôi
thất vọng quay về khi trời vừa đứng bóng.
Chúng tôi ở
trên lưng chừng núi cả tuần, đói thì lấy gạo, lấy nồi dùng nước suối nấu, đêm
vào hang hóc tìm một tảng đá tương đối bằng, trải poncho làm chỗ ngủ. Chuyến
hành quân lần đầu thất bại, tôi theo cả bọn xuống núi.
Không đầu
hàng, khoảng một tuần lễ sau tôi quyết chí lên núi một mình và qua phía bên kia
đỉnh. Vẫn cái ba lô, con dao đi rừng, tôi bắt đầu trèo lên núi. Qua Chùa Bà,
men theo con đường lên đỉnh của các nhà sư. Nhưng cách đỉnh khoảng 150m thì vô
phương. Phi cơ đã ném xuống độ cao này hàng tấn bom, đá từng tảng to nhỏ chồng
nhau phơi trắng một sườn phía đông nam, không còn cách nào đi lên theo đường
cũ, tôi quyết định vượt một thung lũng khá rộng trèo qua sườn phía đông. Ngó lên
cao mặt trời đã xuống, tìm một nơi an toàn tôi căng võng qua đêm.
Trên núi Bà ĐenTa trở giấc trong giao thông hào cũCủa bạn bè xưa đào vội bên rừngDưới trăng vàng sương rơi thật dửng dưngTrên cái nón sắt còn in dấu đạnTa sờ soạng dưới lá khô vùi đốngMột mảnh bom làm lạnh cóng bàn tayTự hỏi nơi nầy còn có xác aiThù hay bạn, hoặc mai đây ta chếtChỗ nầy che thân cho hai cuộc chiếnMột mới vừa qua và một hôm nayTa tới đây dù cho cũng chỗ nầyThêm nắm xương bón để rừng xanh mãiPhía xa xa trong sương mờ gió núiPhố phường xưa giặc mới chiếm hôm nàoCó một đời ta ném bỏ thương đauVà bè bạn chết dần trong tù ngụcTa tới đây, chờ đoàn quân còn lạiĐang vượt rừng trở lại chiến hào xưaKèn thúc quân sẽ vang át rừng mưaCờ sẽ cắm trên cổ thành như trướcTa tới đây dù không cùng hẹn ướcBạn bè ta còn nhiều đứa hiên ngangDí súng vào đầu, thà chết không hàngNói chi là buộc cúi đầu dâng mạngTa tới nơi đây, ta đón chỗ nầyTrên cao điểm của thành trì biên giớiĐêm sáng trăng chờ, còn ta đứng đợiĐoàn quân nào? Ai đó gọi tên tanguyễn thanh-khiếttháng 6-1975
Băng vòng
qua nửa ngọn núi, tôi mất cả 3 ngày. Ngày đi đêm vào hang hay ngủ võng, dù đã
trang bị loại võng có mùng và thuốc chống muỗi, đốt lửa vào đêm, nhưng lũ côn
trùng đủ loại vẫn không tha.
Sườn tây bắc
núi Bà Đen chỉ là một vùng đá bị bom nghiền vụn, cây cối xác xơ, rừng bị thuốc
khai hoang phá trơ trụi. Nhìn xuống, Kà Tum là đó. Hồi còn bom đạn, nơi này là
vùng chiến địa ác liệt, nó là nơi tiếp giáp mật khu, dọc biên giới, mìn bẫy
giăng đầy. Nếu có một đơn vị nào sót lại, e khó mà trụ được ở đây. Chung quanh
nó các chốt chận của việt cộng vẫn dày đặc, những người đi rừng đã nói thế. Tại
khu núi Bà này xem ra không có dấu vết của bất kỳ đơn vị nào. Nó là chiến
trường chết.
Đêm co ro
trong hang núi trên đường đi ngược xuống. Tôi buồn lắm, tiếng gió hú trong đêm,
tiếng rên rỉ của rừng núi, trong cái đơn độc và hy vọng tan tành, tôi quả thật
vô phương tìm cho mình một lối đi, trên hành trình chẳng biết về đâu.
Chiều qua Suối VàngCởi giáp sắt dừng cương một tốiCầm thanh gươm treo giữa lưng đèoTráng sĩ qua sông, giòng nước biếcTiễn lên đường thay trống thúc quânCờ rách trong tay, ngày tan trậnNặng oằn vai vác hết hành trìnhHai mươi năm một trời căm hậnTa là ai? đi dựng đao binhHồn tử sĩ kêu đau dưới thácChim lạc bầy khóc dưới trời sươngBước chân qua rừng chiều nhã nhạcNhạc rừng ơi ! quá đổi đoạn trườngThôi ! mài kiếm, thắng yên, lên ngựaTrăng sẽ soi bước tới biên thùyTráng sĩ qua sông, dòng nước rửaBụi trần ai – để lại rồi đinguyễn thanh-khiết1975
Dưới cơn mưa
trời tháng 6, anh rể tôi đi tù. Trong thân phận bại binh với cấp bậc Đại uý Hải
Quân, anh phải theo tất cả những sĩ quan của quân đội vừa mới tan hàng còn lại
trên đất nước này, trình diện đi học tập theo lệnh của nhà nước mới.
Anh ấy vào
trại Cây Cầy ở Tây Ninh, chị tôi bụng mang dạ chửa, gần đến ngày sinh đứa con
kế, ba má tôi chán nản về rừng Mỏ Công làm ruộng rẫy. Căn nhà trở nên vắng vẻ,
cái ăn, cái mặc làm nặng lo từng ngày. Hai thằng em kế và cô em gái út quá nhỏ
để trông coi gia đình, tôi bị nhiều thứ áp lực đè nặng từng ngày, từng giờ.
Ngoài cái
buồn mất nước, ngoài cái bực bội khi nhìn đám du kích địa phương hoạnh hẹ.
Chúng mang băng đỏ trên tay tha hồ đàn áp. Chủ trương xoá bỏ văn hoá mà chúng
cho là “đồi trụy”. Tất cả sách báo trước 1975 đều bị tịch thu mang ra đốt,
chúng lục soát từng nhà, những mục tiêu mà chúng nghi ngờ bị bới tung lên, nhất
là những gia đình có dính líu tới QLVNCH.
Những ân oán
giữa những người thắng và người thua trận được thanh toán bằng nhiều hình thức.
Đấu tố trong một phiên họp tổ, ấp công khai hoặc thủ tiêu bí mật, thậm chí tìm
cách ghép một cái tội không đâu, dẫn đến nạn bắt bớ lùng sục khắp nơi. Toàn
cảnh bức tranh hoà bình được vẽ bằng màu máu.
Gia đình tôi
bị dòm ngó kỹ hơn vì ba tôi là lính từ thời quân đội giáo phái trải qua hai
thời cộng hoà, anh rể tôi là sĩ quan, tôi là sinh viên có gốc lính. Vả lại, vài
thằng bạn học của tôi bây giờ chường mặt ra là bọn nằm vùng, có thằng rất rõ
tính chống cộng của tôi, một vài đứa có chân trong ban quân quản Tây Ninh,
chúng nhìn tôi dưới cái nhìn chẳng mấy thiện cảm. Gia đình chúng tôi trở thành
cái gai của công an ấp, xã.
Tôi nhớ hoài
một đêm tối trời, tôi đưa chị tôi đi sinh con trên chiếc xe đạp cũ mất đi cái
giò đạp. Tôi đẩy nó thật nhanh về phía nhà một bà mụ vườn cách xa 3 cây số, bất
lực nhìn chị tôi cố nén cơn đau đẻ, chị ngồi trên ba ga xe, hai tay níu chặt
cái yên. Tôi thương chị quá, tôi thương cuộc đời bên bại trận của chúng tôi
quá. Cú tan hàng làm chúng tôi rơi xuống vực thẳm, gia đình ly tán, đói nghèo
chờ trước mặt. Thậm chí chuyện sinh nở của chị cũng khốn khó vô cùng.
Những đứa
con của chị đều do chính tôi săn sóc, thằng lớn nhất sinh ra và chết ngay, lúc
đó chồng chị đang đi học một khoá Hải Yểm ở Mỹ. Thằng thứ nhì sanh ra khi anh
ấy đang đi hành quân, anh ấy là Giang đoàn phó của Giang đoàn 46 Ngăn Chận,
đóng ở Mộc Hoá. Thằng thứ ba sinh ra sau ngày mất nước, cha nó đang bị giam
cầm. Tình chị em gắn bó qua đủ thứ biến động như vậy. Làm con trai lớn trong nhà mà lần này tôi
không thể giúp gì được cho gia đình, tôi tệ thiệt.
2. Thân phận
khốn cùng
Tháng 8 năm
1975. Viện Đại Học Sài Gòn ra thông báo, phát trên radio cùng báo chí. Buộc tất cả sinh viên ban cử nhân thuộc các
phân khoa của đại học Sài Gòn phải trình diện học khoá chính trị cơ bản. Tôi
biết chúng bắt đầu sờ tới lực lượng sinh viên, đành chịu thôi. Ở lại Tây Ninh
thì không thể, tôi đang bị mấy thằng bạn học nằm vùng theo bén gót. Bây giờ
chúng nó cũng khoác băng đỏ súng ngắn, súng dài lạng qua lạng lại trên đường
trước nhà tôi. Thậm chí Trần Thanh Bạch, Nguyễn Hữu Lộc, những đứa cùng khoá
3/73 ngày xưa, ra trường mang lon chuẩn úy nên tại Tây Ninh tụi nó chỉ đi học
tập chính trị gì đó có dăm ngày rồi về, nghe đâu bọn 30-04 xếp loại mấy tên
mang quai chảo chỉ là Hạ Sĩ Quan Cao Cấp, nên không bị liệt kê vào danh sách Sĩ
Quan Trình Diện, tôi cũng không thể tới thăm lom được. Tôi có cảm giác mỗi bước
đi của mình dù ban ngày hay đêm đều có ai đó lù lù theo sau.
Tôi về Sài
Gòn, bơ vơ giữa cảnh đổi thay. Tôi ở nhờ tại 27 Nguyễn Huỳnh Đức, nhà anh
Nguyễn Huy Đình, bạn của anh rể tôi. Ba ngày trong tuần, tôi phải tới trường
Luật theo học lớp chính trị. Ban cử nhân Luật, ngày trước rất đông sinh viên
nhất là năm thứ nhất và năm thứ hai, vậy mà bây giờ sinh viên 4 năm cử nhân chỉ
còn không hơn 300. Có lẽ các phân khoa khác cũng vậy, sau tháng tư biết bao
người đã bỏ nước ra đi.
Trường trại
thưa thớt, sinh viên ngơ ngơ nhìn nhau trong hoang mang, nhìn nhau trong dè
dặt, sợ hãi. Biết ai cùng chung màu cờ. Chúng tôi sinh hoạt với nhau trong thế
thủ, dè dặt từng lời ăn tiếng nói. Ban giảng huấn là đám sinh viên nằm vùng của
việt cộng từ trước ngày mất Sài Gòn, thêm một hai tên từ miền Bắc vào. Chúng
tha hồ nói dóc, tha hồ đọc lại những câu, những lời phát biểu trống rỗng của
chủ tịch, của Lê Nin, của Mao, của Mác như con vẹt. Sau ba bài giảng thì có
trận thu hoạch, viết những nhận xét bài học. Chúng tôi như con cá nằm trên
thớt, mặc chúng chiên xào thế nào cũng được, mặc chúng nói dai, nói dài, nói
dở, mặc chúng chửi xiên, chửi xéo hay chửi thẳng, dĩ nhiên cũng có rất nhiều
người giác ngộ cách mạng sau khoá học, dù chỉ là giác ngộ trên giấy, cũng có
nhiều kẻ thấy mình là người cần phải đứng ngoài xã hội hôm nay. Tôi là một
trong những người không chấp nhận sống chung với cộng sản.
3. Lan Trường
Luật
Nhà Lan là
một nhà may lớn ở đường Gia Long, chúng tôi học cùng năm ở Luật và tự nhiên gần
nhau hơn chút nữa trong khoá chính trị này. Lan rất dễ thương với cái kính cận
và nụ cười thật đẹp. Lan biết tôi chống cộng tới bến, nàng khuyên tôi vượt biên
cùng gia đình nàng, tôi từ chối. Dễ hiểu thôi, thời đó muốn vượt biên thì phải
có vàng, chí ít ra cũng cả 10 lượng. Tôi nghèo rớt mùng tơi, tiền ăn hàng ngày
còn không có nói chi chuyện vượt biên.
Tôi quí tình
cảm của Lan dành cho mình. Lan hay đạp xe đến đón tôi vào trường. hoặc tới
những rạp hát mà tụi bò đỏ lấy làm nơi học tập. Nhìn Lan hồn nhiên kề bên, lòng
tôi buồn lắm. Kỷ niệm những khi hai đứa ngồi ở cà phê vỉa hè dưới hàng me đường
Nguyễn Du, khi hai đứa đèo nhau trên chiếc xe đạp mini, những lần dắt xe đi bộ
khi lên dốc cầu Trương Minh Giảng. Nó đi theo tôi suốt mấy mươi năm dài, nhất
là câu Lan nói với tôi, bên cạnh nhà thờ Đức Bà:
- Anh Khiết, hai đứa mình chơi trò người
lớn nghen anh, mình sống chung với nhau.
Câu nói chân
thành của Lan bắt nguồn từ những lần tôi từ chối tình cảm của nàng, dù rằng tụi
tôi đã từng hôn nhau, ở môt góc giảng đường vắng vẻ, hay những khi đưa đón nhau
về.
- Lan à, anh đâu biết mai này sẽ ra sao,
anh không muốn em buồn vì tình cảm em dành cho anh. Sớm muộn anh cũng phải đi
theo tiếng gọi của riêng mình.
Lan biết là
tôi sẽ rời xa nàng, tôi sẽ không theo chuyến vượt biên như nàng muốn.
Hôm tới nhà
Lan, nàng nhìn tôi van lơn:
- Em muốn anh đi cùng em, tất cả mọi việc
để em lo, được không?
- Cám ơn em đã nghĩ đến anh, nhưng không
thể được.
Tôi không sợ
thành hay bại của chuyến đi, tôi chỉ không muốn mình bị lệ thuộc bất kỳ vào một
thứ gì, tiền bạc, tình cảm. Tôi có sĩ diện của mình. Tôi muốn, nếu có cơ hội
chính tôi tự đi bằng cách của mình. Lan hiểu điều đó, nhưng nàng lại giận tôi
cố chấp không nghe nàng để cùng nhau trên một chuyến tàu vượt biên. Lan là con
nhà giàu, thừa hưởng cái văn minh và tự do từ khi nàng vào Marie Curie, Lan ghi
danh một lúc cả bên Văn Khoa, nhưng tới năm thứ hai nàng quyết định theo Luật.
trong đám bạn trường Luật, Lan thường ngồi kế tôi ở giảng đường, chạy cái
cassette thu âm lời giảng của giáo sư rồi đưa cho tôi nghe lại, nếu một hôm nào
đó chàng buồn tình trốn học.
Lan đưa tôi
ra về, hai đứa đi dọc Gia Long về phía nhà thờ Đức Bà. Những bước chân trên mặt
đường trở thành xa lạ, chúng tôi có lúc nhìn nhau trong im lặng, sau lưng là
thành phố với những dấu hiệu của đổi thay và mất mát, đi ngang cửa Bắc chợ Bến
Thành, nhìn xuống con dốc, những hoa trái xác xơ được bày bán trong cảnh vắng
buổi chợ chiều.
- Anh thấy không, tất cả còn gì để anh nắm
níu mà ở lại, đi với em đi nghen anh.
Nàng nắm
chặt cánh tay tôi, như van lơn. Có mấy giọt lệ hình như sắp làm lem hai tròng
kính cận.
Tôi im lặng
tránh né câu trả lời, hai đứa đi mãi cho tới Ba Son.
Chiều xuống,
trên dòng sông không có bóng một chiếc thuyền, phà Thủ Thiêm xình xịch thở cụm
khói đen từ bên kia bờ. Chúng tôi chia tay chỗ đó, bến Bạch Đằng nơi có người
đã đi và có kẻ sắp ra đi. Lan là người con gái để lại trong tôi một ân tình khó
phai trong những ngày tháng điêu linh trên con đường mù mịt của hành trình đi
lấy lại quê hương.
Gần cuối
khoá học, tôi đụng độ vài lần với đám giảng viên, tôi công khai trên giấy trắng
mục đen và phát biểu của mình trước buổi sinh hoạt liên đoàn sinh viên gồm
nhiều phân khoa. Bọn chúng đã thẳng thừng cho rằng tôi có tư tưởng phản động và
tìm cách loại tôi. Bỏ ngang khoá học, tôi trở về Tây Ninh. Hai ngày sau tôi bỏ
nhà tiếp tục tìm đường vô bưng.
Ngày qua trường cũ
Muốn hỏi em, bao giờ em trở lại
đứng bên đường anh sẽ đợi em qua
có lẽ bây giờ em chẳng thiết tha
đường cũ, trường xưa, vỉa hè, quán cóc
nơi hồi xưa anh thường ngày lăn lóc
đón em về, nhỏ kính cận rất duyên
tất cả chỉ còn trong trí đảo điên
anh già cỗi làm sao mà đếm hết
đứng bên đường anh sẽ đợi em qua
có lẽ bây giờ em chẳng thiết tha
đường cũ, trường xưa, vỉa hè, quán cóc
nơi hồi xưa anh thường ngày lăn lóc
đón em về, nhỏ kính cận rất duyên
tất cả chỉ còn trong trí đảo điên
anh già cỗi làm sao mà đếm hết
Muốn hỏi em có bao giờ em nhớ
đường Nguyễn Du, lá me rớt đầy vai
một chiều, anh can đảm nắm bàn tay
em nép vào anh nhìn mưa xuống phố
áo học trò anh thấy em rất ngộ
con bé hồn nhiên cười vỡ tim anh
mấy mươi năm tình yêu hãy còn xanh
mà mình đã bạc đầu trong nỗi nhớ
đường Nguyễn Du, lá me rớt đầy vai
một chiều, anh can đảm nắm bàn tay
em nép vào anh nhìn mưa xuống phố
áo học trò anh thấy em rất ngộ
con bé hồn nhiên cười vỡ tim anh
mấy mươi năm tình yêu hãy còn xanh
mà mình đã bạc đầu trong nỗi nhớ
Muốn hỏi em, có bao giờ trăn trở
đời chia ra mỗi ngả mỗi lối về
không lẽ chưa lần em chợt nằm mê
nhớ một chút, tình xưa và chốn cũ
em ơi! Sài-Gòn chiều mưa ủ rũ
qua Duy-Tân là nhớ dáng em xưa
về Gia-Long chẳng biết nói sao vừa
trong tim óc em vẫn còn đâu đó
đời chia ra mỗi ngả mỗi lối về
không lẽ chưa lần em chợt nằm mê
nhớ một chút, tình xưa và chốn cũ
em ơi! Sài-Gòn chiều mưa ủ rũ
qua Duy-Tân là nhớ dáng em xưa
về Gia-Long chẳng biết nói sao vừa
trong tim óc em vẫn còn đâu đó
Muốn hỏi em có bao giờ, con nhỏ
nghe tình xưa dậy một chút trong lòng
cho dù phận người trôi dạt long đong
từ một chỗ tận cùng trời, cuối đất
sẽ một ngày nhìn mưa bay lất phất
lỡ như mà nghe ai gọi tên em
thì coi như một người cũ rất quen
đang chợt thì thầm. Ôi! ..Lan trường Luật!
nghe tình xưa dậy một chút trong lòng
cho dù phận người trôi dạt long đong
từ một chỗ tận cùng trời, cuối đất
sẽ một ngày nhìn mưa bay lất phất
lỡ như mà nghe ai gọi tên em
thì coi như một người cũ rất quen
đang chợt thì thầm. Ôi! ..Lan trường Luật!
nguyễn
thanh khiết
07-09
07-09
4. Gian nan
theo dấu cũ
Tôi quyết định về Mộc Hóa, đi xe đò xuống
Tuyên Nhơn, anh rể tôi là dân Giang đoàn 46 Ngăn Chận, nên tôi nhớ rất rõ khu
vực này. Tháng 7 năm 1972, tôi đến thăm anh vào đúng lúc Giang đoàn kéo về Bến
Lức, tôi được tháp tùng theo anh. Những hình ảnh khó quên trong chuyến đi này,
cho tôi học thêm nhiều thứ về Hải Quân.
Hai chiếc
Zippo, trang bị 2 cây súng phun lửa bằng xăng nén đi đầu, dọn đường cho chuyến
dời đô của Giang đoàn. Chiếc Tango hộ tống cho mấy chiếc Alpha mũi nhọn theo
sau. Tôi và anh ấy ở trên chiếc Uniform, giang đỉnh có tốc độ rất nhanh. Giang
đoàn từ kinh Lagrande ra Vàm Cỏ Tây, hướng về Bến Lức, chuyến đi giữa cơn mưa
lớn. Leo lên cột cờ giang đỉnh lúc mưa tạnh, nhìn những chiến thuyền rẻ nước
lao đi giữa sông Vàm Cỏ, mới thấy được cái oai phong của những đơn vị hải quân
trên sông rạch miền Nam.
Tôi có rất
nhiều cơ hội trong đời để tham gia vào đời sống quân đội, dù tôi là dân sự
trong thời tôi mới lớn. Có nhiều lần nếm trải gian nan cùng lính, biết chút ít
những khí cụ chiến tranh. Lòng tôi lại càng thắc mắc, thậm chí có cả bất mãn
khi miền Nam tan hàng. Với một lực lượng hùng hậu như vậy tại sao thua? Thua từ
đâu?
Đến lúc này
tôi phải cố tìm cho bằng được một đơn vị còn lại đang âm thầm chiến đấu sau
ngày tan trận. Nói cho cùng tôi sẽ tìm mọi cách như một chiến binh đi lấy lại
quê hương.
Tại Mộc Hoá,
lấy cớ đi tìm thân nhân thất lạc sau chiến tranh, tôi xin ở nhờ trong một nhà
dân. Tôi nói đại một cái tên, tạo dựng một lý lịch của người thân rất mơ hồ, để
có cái lý mà đi tìm. Thuê xuồng chèo qua những kinh rạch, tôi cố đi thật xa
vùng dân cư hai bên bờ, tôi chèo xuồng chui qua những kinh nhỏ dẫn vào những
nơi hẻo lánh. Đất phương Nam ruộng đồng ngút mắt, nếu có kiểm soát, việt cộng ở
thời điểm này khó mà làm gì với một vùng như thế.
Đêm xuống, tôi
cột xuồng dưới cây bần, cây mắm, căng cái nóp chống muỗi, đói thì có bánh tét
mang theo, khát thì cứ nước kinh mà uống. Lúc ở Sài Gòn tôi nghe vài người thân
quen, nói là khu vực này thường có những chiến binh bất khuất, họ trụ lại hoạt
động từng nhóm hoặc lẻ loi. Ám sát, bắt đem đi những cán binh việt cộng là chủ
tịch xã, chủ tịch ấp. Tin đồn thì nhiều mà thực tế khó đánh hơi được họ đang ở
nơi nào. Tôi còn nghe đến những sĩ quan cấp tiểu đoàn tan hàng sống và hoạt
động bằng cách trà trộn trong vùng dân cư hẻo lánh như vầy, họ đang đợi chờ cơ
hội nắm tay nhau khởi binh lấy lại giang sơn. Thậm chí cả tin “Thiếu tướng
Nguyễn Khoa Nam tư lệnh vùng bốn chưa chết, cái xác thấy được chỉ là xác một
cận vệ của ông”. Hằng hà sa số tin tức về những lực lượng thoát ly sống ngoài
vòng kiểm soát của việt cộng. Nhưng họ ở đâu? Nếu có gặp chắc gì họ sẽ tin tôi
để sẵn sàng cho tôi theo họ. Làm sao mà tin ai được trong tình trạng một xã hội
bất ổn như vầy.
Tôi ngộ ra
điều đó, tôi nghĩ hoài phương cách. Nhất là những đêm một mình đốt hơi thuốc
nhìn cảnh vật chung quanh, tôi quả thật cô đơn và tuyệt vọng. Mười ngày đi theo
con nước mà không thấy được gì ngoài cái mênh mông của cỏ và lúa. Tôi trở lại
Ấp Bắc, lên xe về Sài Gòn.
Ở ngả ba
Trần Quang Khải và Trần Khắc Chân có cái quán café không có tên, tôi thường đến
đó. Tại đây tôi quen với một nhân vật rất lạ, ông không bao giờ cho tôi biết
tên. Một người tốt, tôi biết là ông rất tốt qua cảm quan của mình. Tôi gọi ông
là chú Hai, ông nhỏ hơn ba tôi tới 10 tuổi. Ông thích đọc sách lúc uống café,
đa số mà tôi thấy là tác phẩm của Hemingway, của Boris Patenak, nhiều nhất là
của Erich Maria Remarque, những quyển sách ông đều bao bọc kín mặt bìa. Chẳng
biết ông là loại người thế nào, nhưng chắc chắn là không dính đến cộng sản.
Ông kể chuyện tôi nghe, ông là nhà kinh doanh
bán những món hàng gia dụng, sau ngày sập trời, ông bị đánh tư sản và mất hết,
bây giờ ông chỉ đọc sách cho đỡ buồn. Ông nghe tôi kể chuyện về mình, lúc đầu
tôi rất dè dặt, nhưng dần dần tôi cảm nhận được tinh thần của ông. Ông cố giúp
những người trẻ, những ai chán ghét chế độ hiện hành. Biết tôi là dân trường
Luật, xa nhà, có lẽ cũng có ít nhiều thương cảm với tôi, ông hay cho tiền tôi
tiêu vặt. Ông nói là cứ xem như những người có duyên trong đời, giúp nhau trong
cái khó hôm nay. Ông khuyên tôi hãy tìm hiểu tường tận về bất cứ ai trong quan
hệ, bởi bây giờ, khắp nơi, cộng sản hay trà trộn tìm cách dập tắt những nhóm nhen
nhúm phản động.
Một chiều
tôi đến quán muộn hơn thường ngày, thấy cảnh xôn xao trong quán, tôi đứng tựa
cột đèn nhìn lại. Chú Hai bị hai thằng đeo băng đỏ còng tay dẫn đi, trước quán.
Hôm sau tôi
trở lại, quán đã đóng cửa. Nghe những người gần đó rầm rì bàn tán. Quán cafe đó
là nơi gặp mặt của những kẻ phản động, âm mưu lật đổ chính quyền, hôm trước đã
lùng bắt gần chục người, lấy được truyền đơn và súng ngắn. Tôi rất buồn, thực
ra tôi đang tìm cơ hội để nói với chú Hai rằng tôi muốn tham gia bất kỳ một lực
lượng nào ở thành phố hay trong rừng rú, miễn là lực lượng đó chống cộng sản.
Bất kể lớn hay nhỏ, bất kể khó khăn gì, tôi thực sự muốn chú Hai giới thiệu cho
tôi tham gia. Bây giờ chú Hai bị bắt, tôi không sợ mình bị dính líu chỉ sợ mình
không còn cơ hội.
5. Mỏ Cày
Bắc, thương người nằm lại
Tôi về Tây
Ninh thăm Dũng, tâm tình mấy ngày, hắn rủ tôi về Bến Tre, quê của Hoa. Dũng và
tôi tính sẽ ở tạm nhà ông ngoại Hoa, rồi tìm bất kỳ một toán quân nào đó mà đi
theo.
Tôi nhắm mắt
đánh liều một chuyến tới một nơi hoàn toàn xa lạ. Với ý nghĩ trong đầu nơi nguy
hiểm nhất là nơi an toàn. Bến Tre là ổ việt cộng, nơi đó có thể, rất có thể tìm
ra một con đường. Phút cuối, vợ Dũng mè nheo đòi theo cho bằng được. Dũng vô
phương thuyết phục, chúng tôi đành để cô đi. Tụi tôi trù liệu sẽ để hai cô nàng
ở lại nhà ngoại Hoa, hai thằng chúng tôi sẽ tìm cách tách ra.
Phà qua Rạch
Miễu. Nhìn sông Tiền nước đục một dòng khi thủy triều xuống, tôi nao nao nhớ
ngày còn đi học. Mỹ Tho với vườn hoa Lạc Hồng có dãy khách sạn nhìn về bờ sông,
những quán xá xôn xao thời 1969, lúc tôi lang bạt về đó cùng với Nguyễn Hồng
Đức, thằng bạn học chung một lớp. Đức là công tử nhà giàu, ăn chơi bạt mạng,
tôi bị lây nhiễm cái bạt mạng đó. Mới học đệ tam mà tôi với nó đã trốn học hàng
tháng chơi ngông một phát xách xe gắn máy đi gần hết miền Nam. Sau ngày sập
trời nghe đâu nó vượt biên, chẳng biết có đến bến bờ tự do không nữa.
Hôm này tôi
trở lại Mỹ Tho, qua bên kia sông, như một Kinh Kha. Nhưng chẳng dám có một lời
thề nào trên sông Dịch. Nắm tay Hoa, xuống phà đón xe lam về Bến Tre. Tôi bắt
gặp cái cô đơn vô tận trong lòng, trong bốn con người trên cùng hành trình,
riêng tôi có một ngả rẽ trong lòng mà không thể nói ra. Tôi biết Dũng khó bứt
rời cô vợ mới dù cùng một ý chí như tôi. Nếu cùng đi với tôi hắn sẽ phải rất
nhiều khó khăn khi quyết định.
Mõ Cày Bắc
của Bến Tre, như tên gọi là cực bắc của tỉnh này. Chúng tôi phải qua khỏi nó đi
miết mới tới tận chợ Thơm. Một vùng khỉ ho cò gáy, đồng ruộng mênh mông hút tầm
mắt. Khi chúng tôi đến nơi vụ mùa vừa xong, trên mặt ruộng trơ gốc rạ. Nhà
ngoại Hoa nằm bên kia sông của chợ Thơm, một cây cầu gỗ bắt ngang lỏng lẻo, chỉ
dành cho người đi bộ, mà xứ này có xe gắn máy cũng vô ích. Đất địa gì mà chỉ
một con đường sỏi đỏ nhỏ xíu dẫn vào tới chợ là hết, chung quanh còn lại là
đường đê, bờ mẫu.
Nhà ngoại
của Hoa là căn nhà tranh vách đất hai gian, có một chái nhỏ phía sau làm nhà
bếp, vườn rau sau nhà rất rộng. Những luống cải xanh mướt lá non, mấy luống rau
thơm đủ loại chen nhau trên đất phân rải lớp rạ, lối trồng tỉa rặc ri Nam bộ.
Cái áo nâu đã bạc màu của ông ngoại Hoa lấm tấm mồ hôi, nó là chân dung một lão
ông cần cù, đạo hạnh. Ông vất cái thùng tưới trên lối đi, bước vội về phía cô
cháu gái, nét vui mừng hiện rõ trên khuôn mặt già nua với cặp chân mày, hàm râu
bạc trắng. Ông hối chúng tôi vào nhà, bảo Hoa bắt con gà mái tơ làm bữa chiêu
đãi.
Buổi tương
phùng với cô cháu của ông cùng bọn tôi tắt vội, khi đám công an xã ập vô nhà
vào sáng sớm hôm sau. Bọn chúng bắt chúng tôi lần lượt xuất trình căn cước,
giấy phép đi đường. Trong ví tôi làm gì có căn cước. Tháng 9 năm 1972, tôi đã
nạp vào hồ sơ khi vô khoá 3/73 trường Bộ Binh Thủ Đức mất rồi, cái giấy xuất
ngũ thì thay bằng giấy hoãn dịch. Giấy phép đi đường? Tôi có bao giờ biết tới
thứ này từ sau ngày sập trời đâu?
Tên công an
chỉ huy của xã hất hàm hỏi khi nhìn cái thẻ sinh viên trường Luật của tôi:
- Anh trốn học tập hả?
Đến bây giờ
tôi mới thấy cái ngu của mình. Trên thẻ sinh viên, tôi đã dùng tấm hình chụp
trong thời khoá sinh ở Quang Trung coi như một kỷ niệm thời quân trường. Ai có
ngờ lại xảy ra cái ngày 30 tháng 4 nghiệt ngã này. Cái hình áo lính còn đây, cả
cái dây đeo thẻ bài cài trên cúc áo nữa chứ, thiệt là đại họa.
Trong một
tích tắc, bằng tính bén nhạy sẵn có tôi trả lời thật bình tĩnh:
- Không, tôi là sinh viên trường Luật nên
không nằm trong hàng ngũ phải trình diện đi học tập.
- Láo khoét, hình chụp anh là lính rõ ràng
vậy mà anh nói là không thuộc diện phải trình diện.
- Không, đó là hình tôi chụp khi học quân sự
học đường, tất cả sinh viên chúng tôi phải đi học khoá này, khi nghỉ hè trong
thời gian đi học chữ.
Tôi biết rất
rõ bọn chúng mới nắm chính quyền chưa biết hết tất cả guồng máy làm việc của
nền Đệ Nhị Cộng Hoà. Nhất là ở những vùng nông thôn hẻo lánh thế này, bọn cán
ngố rất dễ bị lừa. Tôi đánh thêm một đòn cho chắc ăn:
- Sinh viên chúng tôi bị bọn Mỹ Ngụy bắt học
căn bản quân sự, ai cũng bị lùa đi học 2 tuần , sau đó mới được cấp giấy này mà
vào trường.
- Căn cước anh đâu?
Không cần
suy nghĩ tôi trả lời rất mạch lạc:
- Khi được cấp thẻ sinh viên này, chúng tôi
bị thu cái căn cước, tất cả giấy tờ tuỳ thân của chúng tôi chỉ có giấy này cùng
chứng chỉ hoãn dịch. Bọn Mỹ Ngụy dùng nó để kiểm soát chúng tôi. Chúng lấy tất
cả giấy tờ khác, chỉ có thẻ sinh viên và giấy hoãn dịch vì lý do học vấn làm
bằng chứng là tôi không là lính. Đó là tấm thẻ màu vàng trên tay của ông.
Tên cán ngố
lật tới lật lui cái giấy hoãn dịch.
- Anh không là lính, là sĩ quan nên tên
thiếu tướng mới ký giấy cho anh? Khai thật đi nhà nước sẽ khoan hồng cho anh,
anh là sĩ quan, gián điệp hay tình báo CIA?
Bỏ mẹ, hoá
ra là vì ông Bùi Đình Đạm là thiếu tướng nên tôi bị nghi là gián điệp CIA, tới cấp
thiếu tướng ký giấy. Kết quả là tôi và Dũng bị bắt đưa đi, hai cô gái ở lại,
ông ngoại Hoa cam kết cho hai cô. Nhưng tất cả giấy tờ của chúng tôi đều bị
giữ. Riêng cá nhân tôi phải chờ địa phương nơi cư trú xác nhận lý lịch. Dũng bị
cho là đồng bọn với tôi, cố ý giúp đỡ gián điệp. Bất luận chúng tôi thanh minh
thanh nga thế nào đều không tác dụng. Thật là hoạ vô đơn chí.
Hai đứa
chúng tôi bị dí súng vào lưng và đưa đi trên bờ mẫu. Qua biết bao ô vuông đồng
ruộng, qua con suối, qua hai cây cầu khỉ, tới một ngôi nhà khang trang mái
ngói, vách ván. Căn nhà đơn độc, chung quanh bốn bề là đồng ruộng, cách xa nhà
ngoại của Hoa nhiều cây số.
Chủ nhà là
cặp vợ chồng trung niên có cô con gái nhỏ 5 tuổi, hắn là công an của xã này.
Chúng tôi bị giam lỏng.
- Các anh ở đây trong lúc chúng tôi điều tra
lý lịch rõ ràng. Nhớ kỹ ra khỏi hàng rào nhà này chúng tôi sẽ bắn bỏ.
Ba ngày đã
qua, chúng tôi chỉ tới lui trong căn nhà đó, đói thì có gạo và thức ăn của ông
ngoại Hoa gởi tới, qua tay của mấy tên du kích. Mọi bước đi nằm trong sự giám
sát của tên công an chủ nhà.
Hai đứa tôi
ngủ trên cái phản gỗ bằng gõ đỏ kê ở phòng khách, chính giữa nhà là một bàn thờ
với cái hình Hồ Chí Minh trên đó. Có một cái võng căng trên cái khung thép kê ở
góc sân, dưới một giàn thiên lý vào mùa kết hoa. Buổi trưa tôi và Dũng ra đó,
đứa nằm, đứa ngồi hoang mang cho tình huống của mình, không biết bọn du kích sẽ
giở trò gì. Có điều tôi biết chắc, sẽ không có cái vụ điện về địa phương làm rõ
lý lịch như chúng nói. Sẽ không có thư báo như tên chỉ huy công an hứa là sẽ
thực hiện nếu sau khi cố gắng điện thoại cho địa phương nơi tôi ở bất thành.
Nơi đây là đồng không mông quạnh, nơi đây là chỗ giáp ranh giữa thế giới văn
minh và thời đồ đá, đồ đồng. Chúng tôi sẽ bị giam như kiểu nghi ngờ cho tới
chết. Có thể chúng đang tìm cách đưa chúng tôi vào nhà giam chính thức của tỉnh
Bến Tre.
Hai đứa
chúng tôi quyết chờ cơ hội để trốn thoát, nhất định phải trốn. Cơ may đi tìm
đường sống của chúng tôi đã khép lại, nói chi đến chuyện theo tàn quân.
Ngày thứ tư
Dũng lên cơn sốt, cơn sốt tăng dần. Nó mê man vào lúc gần sáng. Tôi xin chủ nhà
cho ít dấm vì không có chanh, làm thứ giải nhiệt cho nó. Sau đó thì thằng nhỏ
lạnh run. Sốt rét ! Đúng đó là thứ triệu chứng của sốt rét rừng tôi từng thấy ở
Tây Ninh những ngày tôi còn nhỏ. Con bệnh hết sốt, tới rét liên lục nhiều lần
trong ngày, da sẽ vàng đi, gan sẽ tiêu rồi kiệt sức và chết. Tôi chẳng làm gì
được trong những trận sốt của nó, người nó như cái lò lửa, mỗi lần như vậy tôi
chỉ biết dùng dấm nuôi thứ duy nhất có được ở đây hạ sốt cho nó. Khi nó qua cơn
lạnh thì may mắn bà chủ là dân miền nam dù có chồng là công an việt cộng vẫn
còn chút lòng nhân cho nó cái mền chống rét. Không một viên thuốc, không một
liên lạc với nhà ông ngoại Hoa.
Tôi định bỏ
trốn, nhưng Dũng thì sao, tôi không thể mang nó theo trong tình huống này. Tôi
làm sao bỏ nó ở lại một mình? Những toan tính dằn vật, không có cơ hội nào đến.
Ngày thứ năm
kể từ khi Dũng bệnh. Tôi bắt đầu sốt. Tôi thiếp đi trong cơn nóng hầm hập của
thịt da, nhức đầu như búa bổ, rồi lạnh run, quấn cái mền mà bà chủ mới đưa
thêm. Tôi co quắp người hai hàm răng đánh vào nhau, cái lạnh trong tủy xương
sống, cái lạnh trong từng tế bào, lạnh chưa bao giờ thấy trong đời. Tôi lại
thiếp đi.
Tôi làm sao
mà bị sốt rét được. Ngày lên núi tôi đã uống Chloroquine, loại đặc trị của quân
đội Mỹ, tôi từng được chủng ngừa các thứ khi vào lính. Tôi đã dùng những thứ
dược phẩm ngăn ngừa nó, thậm chí nước lấy từ suối phải đun sôi, ngủ thì có mùng
kể cả ngủ võng. Khó có thể nói là tôi bị sốt rét. Ban ngày đi trong rừng tôi
luôn thoa thuốc chống muỗi. Tôi có nhiều kinh nghiệm ngăn ngừa thứ bệnh này.
Vậy mà tôi bị sốt rét. Hai đứa tôi cùng bị bệnh, không đứa nào săn sóc được đứa
nào, chúng tôi cứ nằm đó trong những cơn hết sốt, tới rét.
Đã 20 ngày
kể từ khi bị bắt. Không một tin tức từ nhà ngoại của Hoa, không một liên lạc
nào, trừ đồ tiếp tế. Dù chúng tôi đã trả lời hàng trăm lần trong những lần bọn
công an đến lấy cung. Những câu hỏi cứ lập đi lập lại:
Tôi là ai ?
Gián điệp, sĩ quan trốn học tập? Dũng à ai ? Chung nhóm, người dẫn đường cho
gián điệp, hay là một trong những tàn quân?
Bờ sông rất
vắng, buổi chiều nghe tiếng bìm bịp kêu. Tôi và Phương Loan ngồi trên con xuồng
nhỏ đi giữa lòng kinh dẫn vào chùa Gò kén. Chùa nằm bên trái quốc lộ 22 đường
vào tỉnh Tây Ninh. Lần trước chúng tôi đi với đám đông bè bạn, lần này chỉ có
hai đứa. Chiếc xuồng trôi đi, hai đứa hôn nhau trên bập bềnh sóng nước đó. Rồi
bỗng dưng cái xuồng lật ngang Loan rớt xuống, tôi vươn tay kéo nàng lên, tôi
vươn tay, vươn tay, chạm phải cái gì đó rớt xuống, không phải là mặt nước, là
đất. Tôi rơi xuống cái hố thật sâu. Giật mình tỉnh lại. Tôi vừa qua cơn mê
thiếp trong cơn sốt chiều.
Tôi nằm yên
chờ cơn lạnh sẽ tới, nó sẽ tới tức thì sau cơn sốt. Cái lạnh tàn nhẫn cướp dần
sự chống chọi của tôi, cái lạnh làm mất khả năng kiểm soát, lạnh đâu từ trong
xương tràn ra ngoài đóng băng tất cả tế bào da, lạnh cóng hai tay, lạnh buốt
xương sườn. Rồi từ từ dịu xuống, cả người gần như tê liệt, cứ muốn nằm im, chỉ
còn lại hơi thở khò khè của người sắp chết.
Tôi thấy bác Năm của tôi là trung uý Nhảy Dù Trần Ngọc Cảnh dẫn một đại đội về đây, ông đi
như chạy hướng về căn nhà, nơi tôi bị giam. Lính của ông ào ào vừa chạy vừa
bắn, việt cộng túa ra chật cả một cánh đồng, những thi thể bị hất tung lên vì
lựu đan, tôi nghe mơ hồ tiếng bác năm hét lên:
- Cứu cho bằng được thằng cháu tôi, trung
đội ép sát cái nhà khốn kiếp đó, không cho thằng nào ngóc lên được, súng cặp
hông mà bắn.
Ông bác Năm,
bạn thân của ba tôi từ khi còn ở quân đội. Hai ông cùng tốt nghiệp sĩ quan khoá
13 của giáo phái Cao Đài. Tôi từng thấy ba tôi và bác chụp tấm hình với quần
ngắn, áo sơ mi tay ngắn, đội kalo màu vàng, trên tay có tập giấy như đang bước
vào lớp học. Cái hình đã ngả màu ố nhiều nơi, mặt sau có ghi “Tháng 5-1955 ở
Cần Thơ”.
Tôi còn nhớ
năm tôi lên lớp đệ tứ. Bác Năm trong một lần về thăm ba tôi, đi cùng với ông là
trung úy Lê Kỳ Lân, chỉ huy trưởng căn cứ Trảng Sụp của lực lượng đặc biệt. Chú
Lân là em nuôi của ba tôi. Chú đẹp trai cao lớn, thân thể như một tượng đồng
trong bộ quân phục rằn ri với cây súng nhỏ xíu mang dưới nách bằng một đai da màu
đen bóng có mấy viên đạn nhét phía ngoài bao súng. Nghe đâu ông là người tình
một thuở của Thẩm Thúy Hằng, khi người đẹp Bình Dương đến hát và ủy lạo đơn vị
của ông.
Giữa cuộc
nhậu tại nhà tôi, lúc tôi đi học về, ra cúi chào hai ông. Bác năm đã rút trong
túi cho tôi cây viết Pilot 57 có khắc tên ông, chú Lân thì bảo người cận vệ
mang từ xe jeep của ông, chú cho tôi cái máy đánh chữ hiệu Olympia.
Thời đó học
trò nhà giàu thì mới có cây viết Hero 303, dân con nhà thường thường chỉ xài
TaTung, loại viết có cái ống hút mực như ống tiêm khi vặn cái đuôi nhựa đàng
sau, nắp của nó nhìn rất thô và to. Viết Pilot 57 là loại hiếm thấy kể cả các
giáo sư đang dạy ở trường tôi đang học vào thời đó. Một món quà kỷ niệm mà tôi
còn giữ mãi cho tới ngày sập tiệm.
Bác Năm đứng
đó vói tay kéo tôi ra khỏi căn nhà đã sập xuống, hai chân tôi bị giặc cột cứng
vào thành giường, bác cố gắng lôi tôi đi, một trái đạn nổ sát chỗ tôi và bác,
tôi bị bắn ra xa, bác năm lãnh một mảnh ngay tim chết tại chỗ. Tôi bò dậy cố
lết về phía bác. Máu trên ngực bác ướt đỏ, máu tràn ra chảy thành dòng xuống
vạt áo hoa dù. Tự nhiên bác năm xa dần, xa dần rồi mất hút. Hai tay tôi vẫn còn
giơ lên khi tỉnh dậy.
Bác năm của
tôi, Trung uý Trần Ngọc Cảnh của sư đoàn Nhảy Dù đã tử trận vào Tết Mậu Thân
1968 khi dẫn đại đội chiếm lại một cao ốc ở Sài Gòn. Điều đó mới là sự thật.
Những ngày
bị giam lỏng ở đây trong những cơn sốt tôi luôn nằm mơ, những giấc mơ trong quá
khứ thật đẹp nhưng cuối cơn mơ bao giờ cũng là cảnh trớ trêu, đau đớn. Tôi ở
đây, sốt và rét từng cơn, mơ từng ngày, mơ trong cơn sốt, mơ trong bóng tối của
ruộng đồng bao la, mơ trong tuyệt vọng. Sẽ không ai đến cứu tôi, sẽ không ai.
Bọn công an
cho người cáng hai đứa tôi trên võng về nhà ngoại của Hoa, sau 24 ngày giam
lỏng, sau khi thấy Dũng đã kiệt lực thoi thóp thở chờ chết và tôi chẳng hơn gì.
Chúng tôi đã nằm liệt trên giường từ ngày thứ 18. Chúng tôi chờ chết.
Có lẽ sợ
trách nhiệm hay muốn ngoại của Hoa chôn xác chúng tôi. Bọn ác ôn cáng chúng tôi
về nhà vào lúc chiều tối.
Dũng nằm
trên sạp tre, thân thể mỏng như tờ giấy. Chung và Hoa cũng bị bệnh sốt từ ngày
tôi và Dũng bị dẫn đi. Bốn đứa tôi đều bệnh, Dũng coi như nặng nhất và tôi nhẹ
hơn một chút, hai cô gái nhờ ngoại của Hoa cho uống thuốc nam nên đã cầm cự từ
ngày đó.
Sáng hôm
sau. Tôi cố thức dậy, mò ra sau nhà, đứng tựa vách đất nhìn những luống rau đã
cắt còn trơ gốc trên đất, vài bụi kim thất còn lại nằm bên đám rau thơm. Kim
thất loại rau thân cây, lá giống như tần ô nhưng không ngạt mùi. Tôi hái mấy
nhánh, rửa sạch đưa vào miệng nhai. Tôi nhớ hồi còn nhỏ, má tôi có nói cây này
hạ nhiệt rất hay. Đến trưa, cơn sốt không dữ dằn như trước, tôi lại nhai cây
kim thất.
Dũng chết
sau hai ngày khi được cáng về nhà. Nó chết chắc đâu gần sáng, nó đi âm thầm cả
nhà không ai hay. Đến sáng, Chung lay nó dậy mới phát hiện nó chỉ là cái xác
cứng đơ.
Bọn công an
bắt phải chôn Dũng ngay lập tức. Ông ngoại ra sau nhà rút mấy miếng ván làm
vách ngăn của nhà sau với cái chuồng heo đã bỏ không lâu rồi, làm áo quan cho
nó.
Cái hòm cho
Dũng là mấy tấm ván mỏng, đóng vội vàng sần sùi trong ngoài. Đưa nó vào áo quan
với cái chiếu quấn quanh, mấy bộ đồ mang theo, bó chặt bằng những sợi dây nylon
thứ dùng cột kiện hàng. Nắp quan tài đóng lại, đinh làm nứt một đường, qua khe
nứt nhìn thấy xác Dũng bên trong. Đành vậy thôi, ông ngoại quyết định cứ để
vậy, đâu còn ván mà thay cho nó, ông ngoại nhét mấy bao nylon vào khe nứt để
đất cát không lọt vào quan tài. Chúng tôi lết đi theo sau ra nghĩa trang tại
một ngả ba ngay bên đường lối vào nhà ngoại. Cỗ quan tài, lọt thỏn trên cái xe
cải tiến, làm bằng 2 bánh xe HonDa. Đất lấp xuống đúng 10 sáng, sau khi phát
hiện nó chết 3 tiếng đồng hồ. Một cái chết như một tử sĩ ở ngoài trận, chôn vội
vàng may mà có cái áo quan. Dù sao nó cũng đang tìm đường để làm lính, thứ lính
chiến đấu sau ngày tan trận. Mộng của nó bất thành. Mộng của tôi cũng tan tành
trong chuyến về Bến Tre, tìm đường cứu nước thê thảm này.
Chôn Dũng
xong, quay về tôi đã thấy một đám công an và du kích ngồi đợi. Bọn chúng quyết
định cấp cho chúng tôi duy nhất một giấy đi đường có tên ba đứa còn lại, từ Bến
Tre về Tây Ninh để xác nhận lý lịch cá nhân. Một giấy xác nhận Dũng chết tại
đây với sự chứng kiến và ký tên của ông ngoại và 3 đứa chúng tôi cùng thằng
công an xã, Tờ chứng tử viết trên giấy học trò chẳng có con dấu nào làm thuốc. Tất
cả tư trang đồng hồ, vàng và tiền mặt bị giữ lại. Chỉ cho mang theo lộ phí vừa
đủ để đi xe. Chúng trả tôi cái thẻ sinh viên, với yêu cầu chính quyền địa
phương đóng dấu xác minh phía sau, cái giấy động viên tại chỗ bị giữ lại. Chúng
tôi có 7 ngày đi và về Bến Tre để nhận lại tất cả, khi có giấy xác nhận lý lịch
cá nhân do công an tỉnh Tây Ninh đóng dấu.
Một tiếng
đồng hồ sau ba đứa chúng tôi đón xe ôm rời chợ Thơm dù biết đã không cách gì có
xe tiếp tục về Sài Gòn, nói chi đi thẳng về Tây Ninh. Chúng tôi nghỉ tại nhà
anh bà con của Hoa tại thị xã Bến Tre tối đó, ngày mai tính tiếp.
Về Tây Ninh,
tôi quyết định không quay lại chợ Thơm, Mõ Cày Bắc. Bằng chiêu cớ mất toàn bộ
giấy tờ. Giấy này tôi làm tại công an tỉnh Tây Ninh, trong đó liệt kê toàn bộ
chứng từ cá nhân. Tôi biết, ở thời điểm đó. Cái đấu đỏ của công an tỉnh có giá
trị như một thứ giấy đi đường, hiệu lực như một căn cước thật. Hai cô gái cũng
đã làm như vậy.
Điều khốn
nạn là tôi khám phá ra, thứ sốt rét mà chúng tôi bị không phải sốt rét rừng mà
là do nhiễm độc dioxin. Những thùng phuy chứa dioxin trên đỉnh núi Bà, sau
tháng 4/75 bị tụi du kích mở banh ra, bỏ lăn lóc, thứ độc hại của hoá chất này
theo mưa tan trong nước suối. Nước đun sôi có thể giết chết vi khuẩn, nhưng độc
tố thì không. Cả mấy ngàn thanh niên ở Tây Ninh, những ai từng lên núi Bà, từng
uống nước suối như chúng tôi, trong thời gian đó đều bị nhiễm độc. Họ cũng có
triệu chứng như chúng tôi đã bị, bệnh viện tỉnh không còn chỗ chứa. Chết vì
nhiễm độc dioxin trong đợt đi lên núi Bà Đen này đã lên con số ngàn.
Chúng tôi
bốn đứa, chỉ có Dũng chết do thứ hoá chất này. May cho tôi và hai cô gái thoát
khỏi bàn tay tử thần. Chẳng biết di chứng có hay không, tôi chẳng thuốc thang
gì khi rời chợ Thơm, vậy mà cơ thể dần phục hồi, chứng sốt rét mất hồi nào
chẳng biết.
Qua chợ Thơm
thăm người chết trẻ
về đây ngó
đá xanh rêu
mộ người năm
cũ buồn hiu bên đường
ta thân
khách trọ bốn phương
lần về bến
cũ mà thương nước ròng
về đây nơi
máu tắm hồng
ngày xưa
biến loạn đau lòng từng qua
chợ Thơm còn
nợ ở ta
những cơn
sốt cháy vàng da trong cùm
về đây thấy
nhớ vô cùng
chiều trên
xứ giặc mịt mùng bóng mưa
gươm, đàn
gãy gánh thuở xưa
sao giờ còn
lại lưa thưa cỏ buồn
ba mươi lăm
năm lệ tuôn
còn con mắt
ráo ngồi thương bạn bè
ba mươi lăm
năm lắng nghe
mầy xương
trắng, tao xương che kiếp người
và đây rượu
kẻ rong chơi
rót lưng
chén khóc một đời bỏ qua
và đây chén
của sơn hà
nửa chừng
rót lỡ như là rượu đau
mầy uống
trước - tao uống sau
uống cho
người sống đang trào máu tươi
hận tao lỡ đứng
làm người
nhìn thân
phận nát giữa hồi trống khua
về đây gió
chuyển hơi mưa
ngó mầy lụn
xuống bia vừa rêu rong
thương mầy
chảy lạc nhánh sông
chảy trong
hoang lạnh cho xong một đời
về đây ta
nhớ góc trời
Mõ Cày Bắc
có một thời tóc tang
chợ Thơm
chinh chiến còn mang
trên lưng
người trẻ chết đang cố cười
nguyễn thanh khiết
Bến Tre 2010
Viết cho Dũng Tây Ninh
********
Tây Ninh
không còn là quê hương an toàn cho tôi dung thân, biết về đâu, đi đâu? Sau cùng
tôi quyết định ở lại Sài Gòn. Tôi và thằng bạn gốc Tây Ninh, nó học ở Văn Khoa,
tụi tôi trọ ở một căn gác trên đường Nguyễn Minh Chiếu. Tại nơi này, cuộc đời
tôi thay đổi, tôi gặp H, sau này là vợ tôi. Nàng cưu mang tôi trong những ngày
khó khăn cùng cực trên thành phố đã thay tên đổi họ.
Tôi bắt đầu
buôn bán ở chợ trời, thứ chợ tự phát bày dọc trên nhiều con đường trong thành
phố. Tôi đóng đô ở Hàm Nghi bên vách Việt Nam Thương Tín, tôi bán thuốc tây,
khách hàng của tôi đủ loại, bọn bắc quân mới về thành, ngơ ngơ đi tìm thuốc
cảm, thuốc kháng sinh hay những cô gái, quí bà đang khao khát những loại thuốc
ngừa thai, trong quan hệ với giặc để sinh tồn. Tôi không quan tâm tới chuyện buôn
bán cho lắm. Tôi chỉ cố bắt chuyện, làm quen với những người mang dáng dấp của
người cũ. Sự phân biệt hai loại người cũ và mới rất dễ nhận ra, chỉ cần chú ý
cung cách cư xử, âm giọng của họ và ánh mắt khi họ nhìn một cán binh việt cộng
qua đường.
H. đưa tôi
về nhà, sống chung với đại gia đình nàng. Chợ trời ở Sài Gòn trong những ngày
tháng đó thật lu bu, cái lu bu nhìn rõ trên đường phố. Việt cộng dắt xe đạp
thồ, thứ loại tải đạn trên đường Trường Sơn như từng thấy trên báo chí thời
trước, ghi đông xe được nối bằng cây đòn nhỏ kéo dài làm điểm tựa để cầm và dắt
xe đi, nồi niêu xoong chảo lỉnh kỉnh bên hông xe. Khá lắm là một chiếc mang
nhãn Phượng Hoàng của Trung Cộng, dĩ nhiên đi loại xe này phải là cấp sĩ quan.
Hình ảnh giặc về thành làm dơ bẩn cả Sài Gòn, chúng tôi những người đang kiếm
sống trên vỉa hè chỉ biết chua xót nhìn nhau, thành phố đáng yêu không còn nữa.
Riêng tôi, tôi cần quái gì với nó, tôi chỉ mong sao sớm tìm được một lối ra,
lối đi cho riêng mình.
Trong cộng
đồng của những kẻ đi bán chợ trời. Đa số là vợ con sĩ quan đã bị bắt đưa đi học
tập hay nói đúng hơn là những người tù của chế độ, những tay giang hồ tránh né
việc truy lùng từ nơi cư trú cũ, những người không có giấy tờ sống như kẻ ngoài
vòng pháp luật. Tôi học rất nhiều ở họ, tôi biết nhiều thứ động trời về họ. Có
những người trông rất bình thường, hiền hoà, nhưng lại là những tay chọc trời
khuấy nước, những tay làm giấy tờ giả chuyên nghiệp, những mối lái vượt biên,
những cựu binh trốn tránh. Cái cộng đồng đó là hình ảnh bi thảm sau ngày sập
trời. Chúng tôi, những cư dân này là những người bị nhà nước hiện hữu đẩy ra
vỉa hè.
Người Sài
Gòn kiệt quệ. Trung tâm tiếp huyết là nơi cứu họ, bằng việc đi bán máu mà sống,
hình ảnh đau thương này mấy ai còn nhớ. Tại các tỉnh thành đều có thứ chợ mua
bán này, mỗi một đơn vị máu 250cc được các bệnh viện mua lại với giá 50 ngàn
vào đầu năm 1976, nhưng nếu một bệnh nhân nào cần đến, con số bán ra là vài
trăm ngàn. Thứ chợ làm xác xơ người cũ, thứ chợ tàn nhẫn trong những ngày Sài
Gòn thật sự đã chết. Tôi vạn bất đắc dĩ cũng đã là nạn nhân trong những khi
không còn một đồng xu dính túi.
Tôi bán máu
để có tiền cho vợ đang thai nghén, để có tiền cho một chuyến xe lửa ra Phan
Thiết. Tôi có dăm người bạn ở Phan Thiết, những bạn bè học cùng trường Luật.
Tôi muốn tìm họ với mong mỏi có thể có được hơi hướm của một đơn vị sót lại hay
ít ra họ sẽ cho tôi biết những thông tin về vùng Long Khánh, Phương Lâm. Đặc
biệt là Trừu bạn thân của tôi, anh là người gốc ở cây số 125 và Tân, những
người có thể tin được.
Ra Phan
thiết, tôi mới biết Tân đã vượt biên, Trừu không còn ở Long Khánh và chẳng biết
về đâu, chắc chắn anh không về cây số 125, anh là lính của an ninh quân đội,
thứ mà việt cộng ghét nhất. Suốt cả tuần loay hoay ở Phan Thiết, tôi buồn chết
được. Ngày xưa, khi còn đi học Tân đã mấy lần đưa tôi ra đây tắm biển. Lầu ông
Hoàng vẫn đó, biển vẫn vậy mà tôi bơ vơ vô cùng.
Cái bụng của
H to dần, sinh kế của chúng tôi khó khăn cùng cực. Tôi đưa H về Nhà Bè. Nghe
lời nàng tôi theo ông cậu vợ sang Phước Khánh bên kia sông Nhà Bè làm ruộng.
Tôi làm hộ khẩu có địa chỉ ở đó nhưng không có nhà dù là một chòi tranh. Trên
cánh đồng ngập nước mặn, tôi vỡ đất hoang, cuốc bằng loại cuốc chuyên biệt cho
vùng đất khai hoang này, người địa phương gọi là cuốc ba lá. Cuốc bên trái, bên
phải, một nhát phía trước, một cái kéo mạnh để đất phèn đó lật sấp lại, đạp
chân ép chung quanh cho đám cỏ trên vỡ đất đó chết đi. Cuốc như vậy trên diện tích nửa mẫu đất, sau cùng sạ
những hạt lúa giống xuống và đợi ngày thu hoạch. Công việc như một thứ kiếm cơm
và do ông cậu vợ tài trợ, dĩ nhiên phải bắt ốc mò cua làm cái ăn.
Mỗi lần đi
ruộng tôi phải dùng ghe chèo từ canh ba đi cho tới sáng bét, ở lại trong lều
mấy ngày rồi quay về Lô Đất – Phú Xuân, nhà ông cậu vợ có H đang chờ ngày sinh
nở. Cái hộ khẩu dù không có nhà nhưng có địa chỉ đủ yếu tố an toàn cho những
ngày chạy trốn của tôi.
Miền Nam
thay đổi sổ gia đình bằng “hộ khẩu”. Trong lần giúp cho gia đình bên vợ làm lại
bản khai tôi bị bọn du kích ngu dốt làm khó dễ, lấy cớ tôi không có giấy đi
đường từ Phước Khánh về Lô Đất. Kết quả là tôi bị tống giam. Vợ tôi phải chèo
ghe sang Phước Khánh năn nỉ thằng xã trưởng, hắn là tay có thiện cảm với hai
chúng tôi, bởi một lý do duy nhất là trên giấy tờ tuỳ thân đã khai, tôi là
thằng có trình độ cao nhất xã, hắn đang muốn tôi làm thư ký cho xã này.
Sau một tuần
trong khám đường ở Nhà bè, tôi được hắn bảo lãnh ra chỉ bằng lời nói với tay
công an quận. Thật là thứ luật pháp rừng rú.
Sau cú nằm
ấp này, tôi có ý sẽ tìm cách vượt biên, khi H đã sinh xong. Nhưng số trời là
thế.
6. Theo mùa
nước nổi
Hôm gặp Trần
Chánh Thành, một ông anh bà con với vợ tôi. Anh ta từ Thốt Nốt, Hậu Giang lên
thăm bà dì vợ tôi, ở chợ Phú Xuân. Cuộc đời tôi lại đi một chặng khác.
Qua mấy lần
tiếp xúc, từ tình cảm thân thuộc bên vợ, chúng tôi biết nhau. Tôi biết anh
Thành là một trong những đại diện của Phật Giáo Hoà Hảo trong Hội đồng liên tôn
do Nguyễn Long Châu xây dựng.
Anh Điệp,
tên cúng cơm của anh Thành, là chủ một lò ly tâm đường cát ở Thốt Nốt. Anh dùng
nó làm hậu cần cho lực lượng của anh đang đóng ở khu Đồng Bà Chiêu. Tôi mừng
lắm, chí ít ra qua anh tôi đã gặp một đơn vị. Bây giờ phải đợi vợ tôi sinh xong
mới tính tiếp.
Giữa năm
1976, tôi bỏ tất cả ruộng lúa đang chờ ngày gặt, bỏ Phước Khánh tôi về Thốt Nốt.
Nhà anh
Thành nằm bên bờ sông Hậu, cách ngả ba Lộ Tẻ, giáp với Long Xuyên khoảng hai
cây số hướng về phía Cần Thơ. Căn nhà khang trang, cái lò ly tâm đường ở một
nơi khác. Vợ anh là con gái một phú hộ giàu có ở đây, anh được các tín đồ Hoà
Hảo nể nang. Phía sau nhà, qua một sân rộng trồng lưa thưa mấy cụm bồ ngót, dăm
liếp rau thơm là tới bờ sông. Trước mặt nhà là quốc lộ 91, đi từ Cần Thơ về
Long Xuyên, một địa điểm rất thuận lợi. Anh chọn nó làm tiền trạm và cho là chỗ
gần như lộ liễu này sẽ là nơi an toàn, đường bộ đường thuỷ ở trước và sau nhà.
Địa điểm khó mà nghi ngờ, nhất là nơi đây thường có những khách hàng lui tới mua
bán những sản phẩm của anh.
Đơn vị của
anh đang nằm trong khu Đồng Bà Chiêu, một khu ngập nước bạt ngàn, nó là đường
thủy đi về Châu Đốc, Tri Tôn, tiếp cận được vùng Thất Sơn bí hiểm, mà theo anh,
ở đó còn nhiều lực lượng rời rạc chưa thống nhất được, do những bất đồng trong cách
làm việc của Hội Đồng Liên Tôn.
Qua mấy lần
tiếp xúc với anh Điệp tại tiền trạm này, anh chính thức mời tôi tham gia nhưng
vẫn nằm tại Sài Gòn, làm một trạm liên lạc với các lực lượng mà anh có quan hệ,
tại những hòm thư chết. Tôi không đồng ý nhưng không thẳng thừng từ chối. Tôi
bảo anh cho tôi có thời gian thu xếp. Quả thật tôi không muốn ở lại trong thành
phố, những tháng ngày lặn lội vừa qua cho tôi bài học khá chính xác, Sài Gòn dễ
nhưng cực kỳ khó, bọn công an đã xây dựng xong một bộ mày kiểm soát nhân hộ
khẩu và những khu phố có cài công an tại chỗ, tất cả mọi ngóc ngách đều được
giám sát chặt chẽ.
Hai tháng
sau, trong cuộc gặp mặt tay ba, tôi, anh Điệp và anh Long cựu trung uý của Sư
Đoàn 9 ngày trước. Anh Long phụ trách quân đội nằm trong khu Đồng Bà Chiêu. Ba
chúng tôi bàn bạc và chính thức thành lập một liên đoàn. “Liên Đoàn A Lực Lượng
Dân Quân Phục Quốc” trực thuộc hội đồng Liên Tôn, có địa bàn từ Long Xuyên về
Thất Sơn. Dĩ nhiên đó chỉ là mục đích và tham vọng của chúng tôi tìm cách thống
nhất các đơn vị lẻ loi, để xây dựng một hàng ngũ tạm ổn định hơn trên đường
chiến đấu.
Việc quan
trọng nhất của chúng tôi bây giờ là phải kiện toàn đơn vị. Theo tường thuật của
Trung úy Long, anh đang chỉ huy một nhóm 30 người chia nhau sống trà trộn với dân
trong khu vực Đồng Bà Chiêu, đã từng đụng độ vài lần với du kích việt cộng khi
trên đường từ Thất Sơn kéo về. Sự có mặt của đơn vị này trong khu vực có thể
gây nhiều chú ý đối với hệ thống trinh sát của sư đoàn Tây Đô 3, một sư đoàn
của bắc quân chịu trách nhiệm từ Trà Nóc về tới Long Xuyên bao phủ một vùng
rộng và Đồng Bà Chiêu nằm trong tầm kiểm soát của chúng. Nhưng anh không ngại
vì anh có một an toàn khu rất vững.
Chúng tôi có
3 vấn đề lớn:
- Việc nuôi quân là một cấp bách.
- Trải thưa đơn vị để bảo đảm an toàn, song
song việc này là phải bắt tay các nhóm còn rời rạc.
- Vấn đề vũ khí càng làm nhức đầu hơn.
Từ khi chiếm
chính quyền bọn giặc đã tiêu huỷ, cô lập và đưa đi những vũ khí thu được từ các
kho lớn chứa quân trang quân dụng của VNCH. Kho Long Bình lớn nhất miền Nam bị
đốt, phá huỷ, miền Tây không hơn gì, các nơi có thể tìm ra vũ khí đều cạn kiệt.
Không có vũ khí thì vô phương, không có hậu cần lấy gì nuôi quân. Những quyên
góp bí mật của Phật Giáo Hoà Hảo không đủ giải quyết vấn nạn này, nuôi 30 con
người thì dễ, nhưng càng đông hơn thì càng khó. Không lẽ một công cuộc dựng lại
giang san chỉ có chừng này?
Cho tới thời
điểm này, chúng tôi chưa có một trợ lực nào từ ngoại quốc. Chưa có chính danh
để dựng cờ khởi nghĩa, chúng tôi chỉ là một nhóm ít oi, đùm bọc nhau làm lại từ
đầu.
Hơn ai hết
chúng tôi biết khả năng của mình. Một triệu quân, có dân, có trường lớp huấn
luyện, có tài trợ của đồng minh, có lãnh thổ trên giang san này còn thua sạch.
Chúng tôi có gì? Ngoài dựa vào lòng yêu nước và một cụm nhỏ tín đồ của Hoà Hảo,
bằng những thứ lực yếu kém đó chúng tôi sẽ làm được gì? Nhưng chúng tôi vẫn
phải làm. Ý thức chống cộng, sự cương quyết không chung cùng với giặc là căn
bản để chúng tôi chiến đấu, dù chiến đấu trong vô vọng.
Theo nhiệm vụ
phân công, anh Thành chịu trách nhiệm tổng quát, kể cả phần đối ngoại, liên lạc
chặt chẽ với Hội Đồng Liên Tôn, cố gắng nắm cơ hội tập trung các phe nhóm từ
phía Nguyễn Long Châu và các đơn vị giáo phái khác, kể cả bên Cao Đài và Công
giáo. Anh Long chịu trách nhiệm phần quân đội trong Đồng Bà Chiêu và các khu
lân cận. Phần tôi lo về kỹ thuật, cung cấp các thứ cần thiết cho đơn vị.
Tên tuổi
chính thức của Liên Đoàn A đã bắt đầu đi vào nghị sự của Hội Đồng Liên Tôn từ
đó. Chọn danh nghĩa là liên đoàn, chúng tôi nhằm mục đích không nhất thiết lệ
thuộc con số, có thể là 50, 100 người, hay hơn nữa.
Anh Long về
Đồng Bà Chiêu. Tôi và anh Điệp tính toán cách kiếm tiền nuôi quân trước nhất,
song song việc này tôi phải kiếm một số vũ khí cho đơn vị. Bởi vì với 30 tay
súng mà chúng tôi chỉ có vỏn vẹn vài cây M16, một số lựu đạn M26. Vài cây Carbine,
cướp được từ những thằng du kích xã hay ấp.
Qua Đồng Bà ChiêuĐồng Bà Chiêu nước lên tới rốnĐoàn quân ma, khuất dưới rừng tràmDăm viên đạn treo đời kháng chiếnTa ngửa mặt cười đêm U-MinhXưa chiến trận trùng trùng phi pháoMột triệu quân bỏ giáp qui hàngCái giang sơn tan tành như thếSá chi thằng vác súng vô bưngXuồng ba lá ngửa nghiêng, nước lũMây lè tè mấy dặm Thất SơnTrăng đâu cười, với nỗi oan khiênGiặc lớp lớp kín đường qua núiTa vẫn đi dưới trời sương rũLũ bạn ngày qua một thưa dầnĐêm biên giới rừng già đen thẫmCú vọng, nhớ thành, nhớ anh emÁo không đủ che đời sương gióCơm mo cau như kiếp lưu đàyMai có chết ta nằm trên cỏMở mắt chờ rửa hận hôm naynguyễn thanh-khiết
Trở về Sài
Gòn. Tôi nghĩ nát óc không biết sẽ bắt đầu từ đâu? Lấy gì làm vốn để đặt cược
cho một đời của mình. Ở quận tư tôi có quen Võ Thành Ngang, một trung sĩ giám
lộ đã phục vụ trong một giang đoàn viễn thám của Hải Quân VNCH, anh ta lớn hơn
tôi mấy tuổi, một chiến binh can trường, ý thức chống cộng gần như tuyệt đối có
thể tin tưởng được. Tôi hỏi anh Ngang tìm cách kiếm ra vũ khí, anh nhận lời,
mừng rỡ như bắt được vàng, từ sau ngày tan hàng anh đã nhiều lần giống như tôi
tìm đường vào bưng.
Thời bán chợ
trời tôi quen biết rất nhiều, trong đó có Năm râu, một tay lão luyện về những
con dấu. Bất kỳ loại nào, trên đồng, trên gỗ anh ta làm nhanh như chớp và giống
99% bản gốc. Tôi đã từng cùng anh thực hiện phi vụ này cho vài tay vượt biên,
dùng con dấu của sở công an hay một đơn vị nhà nước làm giấy đi đường cho mấy
chục mạng, ra miền biển để lên taxi ra tàu lớn mà đi.
Tôi bàn với
anh Điệp, nhân cơ hội bọn việt cộng vừa xây dựng cuộc cải cách công thương
nghiệp. Tất cả nguyên vật liệu nằm trong tay những xí nghiệp nhà nước, giá
chênh lệch bên ngoài chợ đen cực lớn, một cái moteur có giá chính thức 100
ngàn, ở chợ đen lên tới tiền triệu. Muốn có nó phải có giấy kinh doanh, có giấy
giới thiệu của đơn vị quản lý, giới thiệu cái cửa hàng con này đến trung tâm
thương nghiệp của tỉnh hay thành phố mua nguyên vật liệu về. Nông ngư cơ là thứ
hút hàng và đắc đỏ nhất, ngoài ra còn có những thiết bị lớn hơn tại những công
ty lớn hơn đang yêu cầu nhà nước hỗ trợ để cải tạo lại xí nghiệp liên doanh với
nhà nước.
Bây giờ việc
phải làm là tôi săn tìm tất cả giấy tờ liên quan cho nhiều thứ nguyên vật liệu.
Đường đi của nó từ A tới Z, có bao nhiêu cái mộc đóng vào đó, có bao nhiêu giai
đoạn theo trình tự phải vượt qua.
Chuyến hàng
đầu tiên trót lọt khi đi mua mấy thùng thuốc tẩy đường Sodium Hydrosulfite,
chuyến thứ hai 10 cái moteurs dùng cho lò ly tâm đường cát trắng. Và cứ thế
chúng tôi cho người bung rộng ra, mua và bán mọi thứ có thể được. Công việc cứ
thế mà làm, tôi đích thân nghiên cứu những cái cần mua, lấy bản mẫu các thứ
mộc, thực hiện xong mang về Thốt Nốt, anh Điệp rải người đi mua và bán.
Về vũ khí,
ngoài Võ Thành Ngang còn có bạn tôi Ngô Hữu Quyền, một sinh viên Văn Khoa ban
triết, gốc người Hoa là người từng trải, đã tay bắt mặt mừng lúc ở chợ trời.
Quyền bị văng khỏi cái hộ khẩu không có nới cư ngụ, tôi từng giúp hắn làm giấy
tờ giả để sinh sống ở Sài Gòn, hắn đang tìm đường vượt biên sau những chuyến mò
vô bưng bất thành. Quyền là một sinh viên chống cộng đáng nể. Tôi ráp nối với
Quyền trong tinh thần của hai thằng quyết chí đi lấy lại quê hương. Trong giới
giang hồ Quyền quen rất rộng, từ phu xích lô đến những tay đánh bạc thâu đêm,
cô điếm rẻ tiền đến quí bà có tình nhân là cán cớm, một số bè bạn của anh là
quan chức ở vài công ty nhà nước. Bên cạnh Quyền còn có Tài, một hiệp sĩ trẻ
năng động và khoái làm mấy vụ găng tơ như trong phim.
Lần đầu tiên
Quyền mang về cho tôi một lô cả trăm viên đạn M16 mới cáu, chúng tôi dùng hòm
thư chết là mấy thùng rác làm nơi nhận, rồi chuyển về Thốt Nốt.
Chú Chín em
ruột của ba tôi. Ông có hai thằng con Phước và Đạt. Phước vào rừng ở Tây Ninh
từ sau 1975, vẫn thường liên lạc với chú tôi. Thằng Đạt có lần đã dùng lưỡi
liềm cắt cổ một mụ trưởng ban trong hội phụ nữ gian ác của nhà cầm quyền. Sau
đó, nó theo ông anh trốn vô rừng từ cuối năm 1975. Tụi nó thiếu đạn, ông chú
Chín nhờ tôi kiếm một ít đạn colt 45 và M16. Hôm sau, tôi và chú Chín hẹn nhau
ra kioque 18 Nguyễn Huệ, một quán càfe ngay giữa Sài Gòn. Hai chú cháu tôi, kẻ
trao người nhận trót lọt.Tới năm 77 cả hai anh em tụi nó bị vây bắt và giam ở
Tây Ninh.
Tôi và Quyền
thường thay đổi điểm hẹn và không bao giờ đi chung với nhau, nếu có việc cần
thì hết sức cẩn thận với những cái đuôi theo sau, có an toàn tuyệt đối mới gặp
nhau. Chúng tôi đang dùng chiêu của địch hoạt động trong thành phố, bài học gậy
ông đập lưng ông. Quyền luôn có Tài bên cạnh, một chuyên gia giao và nhận. Có
khi tháo rời một khẩu súng trường, đạn dược hay lựu đạn, chất nổ. Chúng tôi
phải bỏ nó vào bên trong niềng xe tải, nhét cái ruột bên ngoài, bơm bánh căng
lên làm bánh sơ cua rồi vận chuyển. Nói chung, trong những ngày tháng nổ lực
làm việc cho chính nghĩa của mình, chúng tôi vận dụng mọi thứ có thể che mắt và
qua mặt địch quân. Trong cuộc chiến âm thầm, đi mà đích tới còn xa lắm, có thể
một sơ xuất nhỏ là thua trắng tay.
Bên cạnh
những toan tính chu đáo đó, tôi cũng một lần ẩu tả nhớ đời.
Một ngày tôi
và vợ tôi đi về Thốt Nốt. Không gặp được anh Điệp, chiều xuống hết xe, chúng
tôi phải quá giang xe bộ đội việt cộng từ Long Xuyên. Trong xách tay của H là
trái lựu đạn mini, trong thắt lưng tôi là cây Browning 6,35, vậy mà hai đứa
tỉnh bơ lên xe ngồi giữa đám bộ đội. Khi xuống xe ở ngả ba Vĩnh Long, thằng
trưởng xa mở cửa tháo bửng sau, hắn buông một câu làm tôi nghe lạnh xương sống:
- Tới nơi rồi, đồng bào ai quá giang thì
xuống đây. Nhớ có súng đạn, dao găm làm ơn mang hết xuống dùm tui.
Kể ra vợ tôi
quả là một phụ nữ can đảm có thừa, mặt nàng không hề biến sắc.
Tôi đã nhiều
lần theo những hòm thư chết đi sâu vào Đồng Bà Chiêu. Chiếc xuồng con chòng
chành dưới đám rừng tràm, phía trước là căn nhà tranh nằm giữa ruộng. Một gia
đình cắm dùi ở đây, trong số họ là một chiến binh phục quốc đang ẩn thân. Anh
Ba tiếp tôi ngoài đống rơm bên hông nhà, anh gầy gò nhưng đôi mắt sáng quắc,
tôi hỏi thăm anh về tình hình trong an toàn khu này:
- Tụi nó cũng thường lục lọi ở đây nhưng
chúng tôi đều có quan sát theo từ xa, khó mà phát hiện, vả lại vũ khí tôi ít
khi mang theo, thường chôn ở nơi có thể lấy ngay tức thì, nếu động là tui vọt.
Đây là một
trạm trong nhiều trạm mà anh Long bố trí cho anh em từ ngoài vào an toàn khu.
Thực ra, nói là “an toàn khu” thì hơi quá. Nó chỉ là một vùng rộng người của ta
ở rải rác quanh đó trên những xuồng đi câu, trong những túp lều tạm trú nắng
mưa của dân đi làm ruộng. Anh Long từng là đại đội trưởng khi ở chiến trường,
anh có nhiều khả năng và kinh nghiệm trong du kích chiến tại vùng này, dân sư
đoàn 9 có khác và khu vực này tuyệt đối an toàn.
Anh Thiện
rất cứng, hắn là tay đi cặp với anh Long, trung sĩ có 10 tuổi lính của sư đoàn
7. Giết cán bộ cộng sản cướp súng, trốn vào an toàn khu. Mất cả năm mới được
anh Long nhận, Thiện ngồi với tôi trên xuồng:
- Anh mới ngoài Thốt Nốt vào hả?
Tôi cười,
móc bao thuốc Vàm Cỏ mời anh:
- Ở đây tụi tui hút thuốc rê thôi, tui hút
quen rồi, thứ này nhạt phèo không khoái.
Cái áo xám
tro, màu áo của tín đồ Hoà Hảo đặc thù đã rách vai, trông anh thật nhẫn nhục,
khuôn mặt chữ điền hiền hậu, nụ cười không xua tan những cam go cùng khổ của
anh làm tôi se lòng:
- Ráng lên anh Thiện, sớm muộn anh em mình
cũng kéo nhau về mà.
- Càng ngày anh em mình càng kiệt quệ. Hôm
trước mất hai thằng khi tụi nó mò về Tịnh Biên, anh Long đang đi xuống đó.
Thiếu thốn thì không nói, nhưng bệnh tật, liên lạc khó khăn làm anh em nản
lòng. Đã có một số chịu không nổi bỏ về rồi. Tôi sợ, kéo dài mình sẽ không còn
gì.
Câu nói chất
phát của Thiện, nhìn cái cảnh đồng không mông quạnh, những cái khó mà tôi đã
nhìn thấy, lòng tôi buồn lắm, lo lắng được kìm giữ lại. Tôi nói với anh:
- Ráng đi anh Thiện, không lẽ mình thua lần
nữa sao? Mọi cái phải bắt nguồn từ sự quyết chí của mình. Ở ngoài, xã hội có
chút tự do, nhưng còn khó hơn ở đây, chung quanh chúng ta đều là giặc, luôn bị
lùng bắt, nhất là giấy tờ, hộ khẩu. Anh sống ở ngoài có khi còn khổ hơn nữa.
Đêm, tôi nằm
trên ổ rơm, nghe chim lạc bầy bay ngang cất tiếng kêu thảm. Rừng tràm dày đặc.
Cái xuồng vô nước chỉ còn nổi sợi dây cột vào cầu ao.
Chúng tôi
chiến đấu vì cái gì? Cuộc chiến này quả thật đơn độc và cạn kiệt dần. Ý chí của
một thanh niên trước cảnh nước mất nhà tan, luôn thôi thúc trong lòng, nhưng
sức người có hạn, tôi chịu đựng được, còn anh em thì sao? Họ có như tôi không,
họ có những đêm gác tay trên trán thấy mình nhỏ nhoi trước hoàn cảnh, bất lực
trước khó khăn. Đôi lúc muốn xuôi tay hay vẫy vùng một trận, gom hết tất cả
đụng độ một lần, như vậy cũng chỉ là kéo nhau tự sát. Chúng tôi đã không còn
gì, chúng tôi mất tất cả từ tháng 4 năm 1975. Chỉ còn một tia hy vọng, một ngày
có được giang san đã mất. Mà làm sao có được ? Làm sao lấy lại quê hương?
Cái còn lại
hôm nay là một ý chí chống cộng, một chờ đợi cơ hội. Đợi một sự giúp đỡ nào đó
lớn hơn, có tầm vóc hơn, ít ra sẽ dẫn chúng tôi qua khúc đường nghiệt ngả này.
Nếu cứ theo hoài con đường đi không đến này, chúng tôi sẽ chết.
Ngày qua biên giớiChỗ đó ta tựa lưng vào nỗi chếtTrên đồng hoang lau lách trổ đầy bôngĐêm lạnh lùng, đêm căng mắt, đêm đôngGiặc kín lối bốn bề không đất sốngBò trên bãi sình tanh mùi xác chếtCắn răng nhìn bạn nát bấy hai chânCuộc chơi không ngang sức, không hậu cầnThiếu đạn, thiếu ăn, thiếu trăm ngàn thiếuNhững cái đầu tóc che không thấy mặtTrên bộ xương khô khốc ngả nghiêng điRừng tràm xanh, như nấm mộ xanh rìĐang lấp kín dần dần đời tráng sĩQua biên giới, đêm này qua biên giớiĐoàn quân còn lác đác mấy tay daoÁo trận còn đâu, súng đạn năm nào?Ta đi nữa, đi cho đời chảy máuTa đã nợ một trời quê tang tócNợ gió sương khi lỡ kiếp nam nhiNợ bạn bè đã ném tuổi xuân thìTrong cuộc chiến có thằng không trở lạiQua biên giới đêm đông buồn tê táiHai năm rồi chưa thấy ánh đèn xưaHai năm rồi trời vẫn nắng vẫn mưaTa vẫn chưa làm gì cho chí cảSau lưng ta, quê hương giờ xa lạGiặc về thành, ta đổi chỗ vô bưngSẽ bao lâu mới chuốc chén rượu mừngThôi mặc kệ đêm này qua biên giớinguyễn thanh-khiết(Tịnh-Biên tháng 12-76)
7. Vỡ mộng giang hồ
Võ
Thành Ngang ở quận 4, cứ loay hoay đi đứng không yên. Anh muốn làm chuyện lớn,
một cú làm giật mình, đánh tiếng cho thiên hạ. Ngang định ám sát tay đại tá tư
lệnh công an ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngang được anh Điệp chính thức đề bạt làm
trưởng nhóm tại Sài Gòn. Anh ta rất cứng trong tầm nhìn, có 8 năm quân ngũ,
từng là tay giang hồ đất quận 4 ngày xưa, dưới trướng của anh có vô số bạn bè,
anh em giang hồ.
Ngang
vẽ kế hoạch. Tên xếp sòng công an thành phố thường đi làm trên chiếc Mercedes
số automatic, hắn đi từ một biệt thự riêng ở bên kia cầu Sài Gòn và chạy qua
những con đường nhất định đến bộ tư lệnh của chúng, Sở công an thành phố. Nếu
muốn chơi thì phải hy sinh, một trái lựu đạn kèm khối C4 vừa đủ phá banh chiếc
xe tại ngay cổng ra vào Sở Công An. Ầm một tiếng là xong.
Chỗ
đó là giao lộ của Nguyễn Trãi và Nguyễn Cư Trinh, hắn sẽ đi vào cổng đó. Chỉ
cần hai chiếc xe gắn máy là được. Xe sau sẽ chở hai, thằng ngồi sau ném lựu
đạn, xe trước lạng một đường làm giảm tốc chiếc Mercedes, trước khi nó rẻ vào
cổng. Xong, cả hai chia nhau, xe sau 360 độ về đường Nguyễn Cư Trinh, chạy sang
cầu ông Lãnh về quận tư biến vào các con hẻm, người của mình rước ngay đầu cầu.
Xe trước đi thẳng tới, quẹo trái xuống Trần Hưng Đạo, phóng sang Nguyễn Biểu,
người mình rước ở đây. Võ Thành Ngang vẽ những con đường, những yếu tố căn bản
cho tôi thấy, ngay trên tấm giấy học trò tại nhà anh. Ngang nói:
- Im lặng quá lâu sau vụ Vinh Sơn, bây giờ
phải hâm nóng lại. Dân Sài Gòn đặc biệt là đồn. Có ít đồn to, lan rộng làm
tiếng vang.
- Liều lĩnh quá không? Tôi hỏi anh.
- Chứ không lẽ nằm yên không cục cựa thế
này, ngứa tay ngứa chân quá đi. Yên chí, đường thoát toàn bộ nằm dọc theo kinh,
cùng là tụi nó lặn sang bên này bờ.
- Từ từ tình kỹ lại. Tui cũng đồng ý với ông
là làm, nhưng chớ có vội. Bây giờ, anh cứ theo dấu hắn thật kỹ cái đã. Chúng ta
sẽ chơi, nhưng lựa đến cận kề một ngày quan trọng nào đó, như vậy tiếng vang xa
hơn. Tôi sẽ có C4 cho anh cùng một trái mini còn mới cáu.
Nguyễn
Long Châu sa lưới, bị bắt cả tháng trời tôi mới biết. Anh Điệp như rắn mất đầu.
Cả hệ thống phục quốc của Hoà Hảo, đứng ngồi không yên. Một cuộc bố ráp qui mô
ở miền Nam đã lòi ra hàng đống mặt trận, tù rạc mỗi ngày một đông. Những bản án
âm mưu lật đổ chính quyền đã xuất hiện. Dù chưa có vụ nào chính thức trước bàn
dân thiên hạ như vụ Vinh Sơn. Nhưng cổ máy cầm quyền đã xiết lại.
Dân
Sài Gòn lại kháo nhau, như thể sắp tới rồi. kèm theo là những tin “Tư lệnh Hải
Quân VNCH đã về xâm nhập ở biển Cà Mau”. “Đại tá Lê Quang Lưỡng, con báo của nhảy dù đổ bộ trên KonTum”. Thậm chí họ
rỉ tai nhau là “toàn miền Nam đang may cờ vàng ba sọc đỏ chờ rước đoàn quân
phục quốc”. “Thấy chưa các mặt trận đang lộ diện làm áp lực cho chính quyền
phải trả lại miền Nam”. Động trời hơn nữa là có tin đài BBC vừa công bố. “Thành
phần nội các lưu vong đang thúc ép đồng minh nối lại hiệp định Paris”. Và tá lả
những tin gây xôn xao một dạo.
Ở
Đồng Bà Chiêu, Tịnh Biên, Châu đốc. Tất cả hoàn toàn tê liệt. tiền trạm của anh
Điệp, tức xếp Trần Chánh Thành của Liên Đoàn A Lực Lượng Dân Quân Phục Quốc, co
lại một chỗ, lệnh án binh bất động tới tất cả anh em.
Tôi
trở lại quận tư, lang thang cùng khắp với cái giấy đi đường của hộ khẩu gốc bên
Phước Khánh - Đồng Nai, dù không có nhà, nhưng xã Phước Khánh vẫn hoan hỉ đổi
giấy đi đường cho tôi về quận tư nuôi vợ ốm. Cái giấy phép ba tháng một.
Tôi
không thua vì bị lộ từ những người anh em chiến đấu của mình. Tôi thua vì một
chuyện tào lao, một thằng cha không ra ôn binh chi trong quan hệ hàng xóm.
Ngày
17-10-1977. Sáng sớm tôi ra cái quán đầu hẻm uống café như thường lệ. Đến khi
quay vào, tôi biến sắc, trước sau trái phải, công an đứng chật khu phố, tên
trưởng công an quận tư đẫn đầu. Hắn chĩa súng vào tôi, khi tôi sắp quẹo sang
con hẻm khác:
- Anh Khiết, đứng yên, nhúc nhích tôi bắn
bỏ.
Bốn
thằng cớm kẹ nhào tới thúc ké tôi lại, móc còng vào tay tôi. Chúng đọc lệnh
bắt, khám xét căn nhà nơi tôi ở. Dân quận tư tràn kín các con hẻm vào nhà vợ
tôi. Lũ công an lục từng hóc kẹt, gõ từng viên gạch, cuộc khám xét từ 7 giờ
sáng tới 11 giờ trưa. Chúng lôi ra một lô súng đạn mà tôi cất dấu: Súng trường
đã tháo rời, súng ngắn, Browning 9 ly, đạn đầu bằng, xuyên phá, đạn dược các
loại, ống nhắm hồng ngoại… một đống mộc các loại từ bộ tư lệnh quân đội nhân
dân thành phố tới sở công an, các quận, nhiều đơn vị biệt lập. Một số ấn bản
làm truyền đơn kêu gọi chống cộng chưa kịp chuyển đi. Bọn việt cộng chất hết
lên đầy thùng xe bán tải. Chúng bắt tôi đứng trước nhà, trước chiếc xe chụp
hàng tá tấm hình. Tôi bị bắt. Tôi chính thức sa lưới trong tiếng xì xào của
người dân trong khu phố:
-
Trời! thằng này là học trò mà. Ai dè nó có cả súng ống, đạn dược chất cả xe thế
này. Chắc là phản động lật đổ chính quyền có tổ chức.
Cho
tới khi bị còng tay, tôi rất tỉnh. Biết là vô phương tẩu thoát trước hàng trăm
tay súng lăm lăm từ bốn hướng. Tôi nhếch môi cười khi bị đẩy lên xe, như một nụ
cười trấn an đồng bào đang âm thầm tiễn tôi vào ngục. H. không hốt hoảng, nàng
bế đứa con gái mới 10 tháng tuổi, đứng trước cửa nhà nhìn tôi. Mấy đứa em vợ
thập thò nhìn theo bên trong cửa sổ. Xe lăn bánh, chúng đưa tôi về công an quận
tư.
Cú
bắt tôi, cùng một lúc với Võ Thành Ngang tại góc Xóm Chiếu, Đỗ Thành Nhân, Ngô
Hữu Quyền thì sau đó. Khi hai thằng gặp nhau ở trại Z30D, tôi mới biết hắn bị
vây trên đường qua cư xá ngân hàng, một tuần sau khi tôi sa lưới. Duy có Ngang
là tôi chưa gặp lại, nghe đâu hắn cũng bị đày lên Z30D ở phân trại B và đã vượt
ngục.
Cuộc
vây bắt tôi được thông tin rộng rãi, chúng dán nguyên tờ báo Sài Gòn Giải Phóng
có hình của tôi chần dần trên tranh nhất, vào những bản tin của quận, trên
đường Hoàng Diệu, trước công an quận, bản tin lưu giữ hàng tháng trời. Đối với
bọn chúng vụ của tôi là vụ ì xèo thứ nhì sau vụ Vinh Sơn. Xui một cái gia đình
tôi trong cơn hoảng loạn và bị giam lỏng, không ai lưu giữ một bài báo nào cho
tôi làm kỷ niệm thời chiến đấu chống cộng của mình. Tôi tiếc hùi hụi.
Khi
ở tù, có lắm lúc tôi nhớ Ngang, nhớ cái hy vọng gây tiếng vang chưa thành tựu.
Nhớ Quyền, cái tướng cao to, đầy nhiệt quyết, phải chi tôi để hắn vượt biên,
như hắn muốn. Nhớ Tài cũng bị chung với Quyền, nó còn trẻ quá, tội nghiệp.
Trong
số người tôi quen, có một tay ở gần nhà vợ tôi. Hắn là một thầy Lỗ Ban, tôi
không biết rõ tên hắn, dân trong khu vực gọi hắn là thầy Tám. Có một ngày, tôi
đi chợ mua con cá đuối về nấu canh chua, do sơ ý tôi bị đứt một vết nhỏ ở ngón
tay cái, cái đuôi quái ác của con cá chạm vào vết đứt, mấy giờ sau ngón tay
sưng lên đau nhức vô cùng. Hai ngày sau nữa, dù đút ngón tay vào túi mật heo
như người ta chỉ dẫn, ngón tay vẫn sưng to và đau thấu xương. Tôi nghe người
trong xóm chỉ thầy Tám, tôi tới nhờ ông hô biến một cái, bằng một cây nhang quơ
quơ trên ngón tay sưng to, mấy phút sau là cơn đau lắng xuống. Hôm sau tôi tới
thấy Tám làm phép lần nữa là hết hẳn, ngón tay xẹp xuống một cách kỳ diệu.
Người ta gọi đó là cách khoán bùa.
Tôi
quen anh Tám từ đó, anh còn là dân thợ mộc, thỉnh thoảng tôi cũng mượn đồ mộc
của anh về, nói là đục đẽo sửa mấy cái ghế hay chi đó. Thực tế là tôi làm lại
mấy cái báng súng đã gãy. Đâu có ngờ, sau này tôi mới biết thầy Tám là tổ sư
công an chìm của quận tư trong dáng dấp một dân lao động nghèo và là thầy lỗ
ban. Hắn theo dõi tôi từ đó, chắc là vậy. Dĩ nhiên ở quận này tôi quen biết ai,
Thầy Tám biết tỏng tòng tong. Tôi nhận ra cái sai lầm chết người của mình khi
tôi bị còng tay tại nhà. Vô tình ngó sang những người hiếu kỳ đứng xem ở con
hẽm đối diện, tôi thấy thầy Tám đang to nhỏ với thằng trưởng công an phường,
hắn đứng đó quan sát suốt thời gian bọn công an khám xét nhà, cho tới khi tôi
bị áp giải lên xe.
Phải
chi tôi đừng quay lại Sài Gòn vào tháng 10 năm 1977. Phải chi tôi đừng đứt tay
vì một con cá đuối. Phải chi tôi không quen thầy Tám để hắn biết và theo dấu
tôi. Phải chi thằng lấy cung tôi ở trại T20 trung tá việt cộng Tạ Đức Trung,
đừng nói thẳng với tôi về thầy Tám là một cán bộ nằm vùng ở Sài Gòn trước năm
1975 và tiếp tục công việc tận trung với đảng mãi sau này. Hắn là chìa khoá làm
lộ tung tích của tôi.
Tôi
không chút tiếc nuối nào, không ân hận gì. Tôi cũng không vỗ ngực cho rằng tôi
đã có một thời đi chiến đấu cho cái giang san tả tơi này. Dù sao tôi cũng sống
đúng cái tuổi trẻ của tôi. Một tuổi trẻ ngạo nghễ, một đời không sống chung với
cộng sản, tôi đã hiên ngang đi hết đỗi đường của riêng mình, cho dù đó là con
đường đi không đến. Cho dù, tôi chẳng làm gì cho ra hồn, nhưng ít ra, tôi có
chút hãnh diện là mình đã sống đúng, đúng cái chất liệu bạt mạng của tôi, đúng
cái suy nghĩ của một con người. Người tuổi trẻ đã đạp trên gông xiềng và nô lệ.
Tôi
cầm chắc với những tang vật mà bọn công an thu được, cái án chung thân là nhẹ
nhất. Có thể sẽ tử hình. Chết là cùng, tôi nghĩ vậy. Nhưng còn anh Điệp, khu
Đồng Bà Chiêu làm sao thoát được.
Ngang
thua một lượt với tôi, hôm bị đưa đi lấy cung tại quân 4. Tôi thấy Ngang bị
còng tay ngồi ở phòng bên. Hai tuần sau khi bị đưa lên T20, trại giam Phan Đăng
Lưu, tôi lại thấy Quyền đi làm việc từ biệt giam. Vậy là những mắc xích đầu
tiên, bọn công an đã nắm gọn. Bây giờ tính sao?
Kéo
dài thời gian là phương cách duy nhất có thể cứu vãn tình thế. nhưng bằng cách
nào. Muốn chúng tạm tin thì phải nhận. trước những câu hỏi không thể từ chối
trả lời.
- Tôi làm việc với ai? Từng liên lạc, gặp
gỡ những ai?
Chỉ
có tôi là điểm cuối cùng đối với những người bị bắt chung. Không ai biết về
Thốt Nốt, về anh Trần Chánh Thành, về Hội Đồng Liên Tôn. Tất cả chỉ nghe
và biết qua văn bản. Thứ văn bản xác
nhận làm niềm tin cho Ngang Và Quyền rằng đó là một lực lượng có thật và chính
danh để hoạt động. Nhưng, đối với cả hai. Tôi là điểm cuối cùng, trong mắc xích
của toàn bộ lực lượng. Chỉ khi nào tôi thua thì anh Thành và anh em còn lại mới
thua. Làm sao để cắt ngang chỗ này. Tôi phải nhận và nhận tất cả. Phải bằng mọi
cách để đến tôi là kết thúc. Tôi không sợ bị tra tấn, tôi không sợ bị kìm kẹp.
Tôi chỉ lo cho những đồng đội còn lại. Phải cứu những người chưa bị sa lưới.
Tôi
nhận mình chỉ liên lạc qua những hòm thư lưu động, một liên lạc viên của hội
đồng Liên Tôn. một nhân vật ảo do tôi vẽ ra.
Đòn
này làm bọn công an tin là tôi nói thật. Lý lẽ duy nhất là. Một việc lớn lao
như vậy làm sao tôi có thể tiếp xúc trực tiếp những người cấp cao hơn được. họ
chỉ sai liên lạc viên, và tôi chỉ biết có ông ta. Bọn công an đã đưa tôi đi
lòng vòng Sài Gòn cả hơn tuần lễ tới
những điểm hẹn do tôi vẽ ra, kể cả hình dáng của người liên lạc với tôi. Đám mộc
hả? đồ chợ trời làm xong trả tiền công, mạnh ai nấy biến, súng đạn thì mua
chui, từ công an nào đó hay một tên ba ke thiếu tiền xài ăn cắp đồ quân đội,
đâu có để lại dấu vết, mua bán xong mạnh thằng nào nấy đi. Tôi cứ một lời khai
mọi cái súng đan, in ấn, chỉ qua hòm thư. Dứt khoát tôi tìm mọi cách sao cho
mình là cái gạch cắt ngang toàn bộ. Muốn chúng tin hay tạm tin là một điều
không dễ, tôi phải thuộc lòng tất cả những gì mình từng khai, sắp xếp theo một
trình tự như thật. Tôi luôn phải nhớ trong đầu rất bình tỉnh, thật cẩn thận
phân tích câu hỏi, không trả lời dù có một chút khác biệt nhỏ nhất trong một
vấn đề. Cuộc điều tra suốt nhiều tháng, chuyển qua nhiều lần biệt giam. Sau
cùng bọn chúng kết cung.
Tôi
bị đưa đi tù với tội danh Phản Động và án phạt tập trung cải tạo. Tên chấp pháp
Tạ Đức Trung nói với tôi:
- Đúng ra chúng tôi đưa anh ra toàn án nhân
dân.Chắc chắn anh sẽ nhận mức án thấp nhất là chung thân. Nhưng thấy anh còn
trẻ chưa ý thức cách mạng, thay mặt cho đảng, chúng tôi khoan hồng cho anh một
con đường sống để anh có cơ hội ăn năn, chuộc lỗi với nhà nước và kết cung anh
bằng mức án Tập Trung Cải Tạo, can tội Phản Động
Hơn
ai hết tôi biết rõ cái án tập trung. Đối với cộng sản. Nó là án chế độ. Còn chế
độ là còn ở tù. Nó là mức án dưới tử hình nhưng trên chung thân, không hề có
chuyện giảm án. Tội Phản Động thì khỏi nói, nó sẽ đi theo tôi tới khi nhắm mắt,
nếu tôi vẫn còn sống trong xã hội cộng sản.
Quan
trọng nhất theo đánh giá của tôi. Do thời điểm đó có quá nhiều anh em từ các
lực lượng nổi dậy, có quá nhiều tổ chức đồng loạt dấy lên, trong đó cũng có
những tổ chức do công an dàn dựng để thanh niên miền Nam, những ai có tinh thần
chống cộng sa lưới. Cho nên hồ sơ án tiết của tôi chắc chúng nghĩ cùng lắm thì
giống như đám đông từ các mặt trận đã bị sa lưới. Do đó chúng không đào tận
gốc, bới tới ngọn theo cách của cộng sản. Cơ may này làm tôi thoát khỏi ra tòa
với án tử hình.
A20 nguyễn thanh khiết
A20 nguyễn thanh khiết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét