A20 nguyễn thanh khiết
III. Những chuyến đi quên về
1. Rừng đã
phai chưa
Mùa
hè, những đụn cát bỗng nhiên nóng hơn, dưới cái nắng tháng tư theo những cơn
gió thỉnh thoảng thổi qua khe lá. Đất Bình Thuận quả không thương người, không
thương những đứa con da vàng đang giẫy chết trong Rừng Lá. Mưa không về, con
Suối Lạnh tang thương phơi những lớp đá cuội dưới đáy, từng tảng rong rêu màu
đỏ gạch nổi lều bều trên mặt nước. Con suối chạy ngang qua một thung lũng hẹp
dẫn vào trại giam, nơi mà hàng ngàn tù nhân đang chết dở vì thiếu nước.
Buổi
chiều, dưới cái nóng như lò lửa sau một ngày chật vật dưới đám lồ ô. Cắt, cưa,
đục đẽo, để dựng lên một căn nhà mới nằm bên lộ chính dẫn vào trại.
Khu
A của trại giam Z30D, thuộc địa bàn Bình Thuận, Hàm Tân. Căn nhà có cái tên rất
tội nghiệp “Nhà hạnh phúc”, đó là nơi thân nhân của những người tù ở khu A làm
nơi thăm nuôi, gặp mặt.
“Thăm nuôi” một danh động từ tàn nhẫn xuất hiện trong tự điển Việt sau ngày tan hàng, sau ngày mất nước hay đau đớn hơn là sau ngày một quân đội có tiếng kiêu hùng ở Đông Nam Á đầu hàng vô điều kiện, trước một đội binh tạp nhạp, nón tai bèo, súng AK, dép râu. Đã chính thức vào “giải phóng Sài Gòn” cuối tháng Tư năm 1975.
Chúng
tôi 28 con người xây dựng nó. “Nhà hạnh phúc”. Cái công việc phải làm cho có,
phải làm cho xong đó, kéo dài dưới cái nóng trời mùa hạ của Hàm Tân.
28
con người là một đơn vị, cùng một lúc hàng chục đơn vị có tổng số ngang nhau ùa
xuống con suối. Trong một tích tắc dòng chảy đã biến một màu đất bùn, cáu cợn,
nó không là con suối nữa mà là một vũng như từng thấy ở miền quê “vũng trâu
nằm”, nó tệ hơn cái vũng trâu đó một chút, nó không có chiều sâu, có chỗ chỉ
một gang tay, hay độ cao mặt nước bùn chỉ bằng cái lon Guigoz móp méo đang cố
gắng chắt lọc may ra có ít nước chảy vào. Đó là một trong những buổi chiều đi
tắm suối, theo đúng qui định của trại “được tắm rửa sau giờ lao động”.
Con suối Lạnh ngoằn ngoèo ở đoạn này, nhờ trời
nó quanh co đi qua những chòm cây nhỏ. Cho nên đội nữ, gồm một số tù nhân chính
trị và biệt đội Thiên Nga ở nhà 7 khu A, có chỗ để mà che cái nõn nà bị bầm dập
trong điều kiện sinh hoạt thê thảm này. Nếu không, dưới trời lồng lộng có khi
làm đau cho phận đàn bà. Có lẽ thượng đế trên cao đã dự trù cho cái tai ương sẽ
xảy ra nơi này vào những năm 1978 tại Rừng Lá, Hàm Tân, nên cho mọc lên những
chòm cây thấp, bụi cỏ cao để che người, che tấm thân loã lồ, mới có hai năm sau
ngày thua trận đã tàn phai quá đỗi.
Không
có ưu tiên nào cho việc đi tắm, không có chọn lựa, đội nào về trước, tắm trước.
Hôm nào cùng một lúc tất cả các đội cùng gặp nhau bên bờ suối là thê thảm. Dĩ
nhiên, thê thảm nhất cho đội ở sau cùng của dòng chảy. Nước, mà không, cái sền
sệt đó không thể gọi là nước được, nó là triệu thứ cặn bả dồn về, mụn ghẻ, cáu
ghét, mồ hôi thậm chí những chất thải ra trong chu kỳ kinh nguyệt của các bà
trong 40 nhân số của đội nữ, cộng thêm mấy cán ngố nữ chuyên trông coi đội này,
đã làm đặc quánh nguồn chảy, chưa nói đến những cuộc băng tròn nhỏ như ngón tay
làm bằng quần áo xé ra, khăn cũ... đã ít nhất một lần đặt vào cái nơi kín đáo
của cô hai, cô ba nào đó, nó lờ mờ quyện trong cái gọi là dòng nước. Thiệt tội
cho những con người đã đi đến tận cùng của đời sống khi nước mất nhà tan.
Ở đâu cũng vậy, người ta nói. Giàu nhà kho, no
nhà bếp. Một khoảng suối rộng nằm trên đầu nguồn, ngang khu vực nhà bếp là khu
chỉ dành cho đội nhà bếp. và là nơi lấy nước uống cho toàn trại. Thường đội này
là thành phần chọn lựa từ những người được mô tả là học tập tốt, hay những cán
bộ thoái hoá bị giam giữ, nó được cộng thêm đội lâm sản, là những lao động tự
giác, lên rừng đốn cũi, đi làm không có vệ binh ( những tên vác súng dài) theo
canh giữ. Vào những năm 1977-1980. Trại này, đội lâm sản là đám hình sự phạm.
Về sau, nghe nói khi những quân nhân trình diện để được đi học tập từ miền Bắc
về, họ đã thay cho lực lượng lao động ưu tiên này.
Hàm Tân là khu vực được mô tả có các trại giam
liên tiếp nhau. Kéo từ Xuân lộc là Z30A, Z30C, Z30D. Thời đó con số Z30 khởi
đầu của tên gọi chưa được nhận biết đầy đủ lắm. Sau này, qua những lần thay đổi
của cục quản lý trại giam, mới biết nó là những trại trực thuộc Bộ Nội Vụ. Ngày
nay nó thuộc Bộ Công An, mang tên cục
V26 mà tên trại là Thủ Đức, dĩ nhiên nó đã được nhân rộng ra và qua biết bao
lần tái xây dựng từ những mái lá của cây buông trở thành gạch ngói, tường vôi,
hoa hoè, hoa sói.
Đêm
trở lạnh của mùa đông, cái lạnh se se giữa núi rừng Trường Sơn, làm dấy lên
những tiếng than của đám người đang sống trong địa ngục. Tiếng con mang lạc
loài vẳng từ rất xa nghe buồn chết được. Gió gào qua lớp rừng lá buông, len lỏi
về trên mái lá trại giam nghe rờn rợn u linh như tiếng nỉ non của một bầy quỉ
dữ, đang gươm giáo diễn hành trong đêm trần gian, đến tận cùng hang hóc của địa
cầu, hăm dọa linh hồn người sắp chết.
Khu
A có 4 dãy nhà theo hàng dọc, trên đường chính vào trại khi qua khỏi khu trung
tâm của trại (nơi này, quản lý các phân trại B, C, D, E, những phân trại này
nằm xa trên con đường ngoằn ngoèo ở dãy núi sau trại). Sau lưng cái dãy dọc này
là một khối 4 dãy nhà ngang, phía trước có một sân rộng để tập hợp, và thường
dùng làm sân bóng chuyền. Giữa hai khu đều có hàng rào bốn phía bằng cây lồ ô
đan chéo nhau, một thứ giống tre, nhưng lóng dài và thẳng hơn, băng qua một lối
thật rộng là bếp trại, sau lưng nó là giao thông hào với nhiều lớp thép gai cao
5m.
Phải
nói là tôi rất may mắn, những năm trong tù, qua mấy trại giam. Tôi gặp được rất
nhiều bậc tiền bối kèm cặp cho tôi trụ được trong những ngày tháng trên gông
xiềng. Bên cạnh đó cũng hàng hà sa số những cái làm tôi mất đi ít nhiều nhiệt
tâm của tuổi trẻ. Hai mươi ba tuổi, tôi trẻ măng trong hàng ngũ đứng trên sân
trại giam, lao động khổ sai.
Tôi
đi tù vì cái nhiệt huyết của tuổi trẻ. Tôi đi tù vì cố đi lấy lại quê hương .
Tôi đi tù vì đã bước trên con đường chông gai mà mình dư biết khó mà đến đích.
Khi bị ném vào cái lò sát sinh này, tôi không chút gì sợ hãi và tiếc nuối chút
nào.
Hồi
ở trại tạm giam T20, Thành Gia Định. Thượng toạ Thích Thiện Huê dạy tôi ngồi
vận khí để giữ sức khoẻ và tập nhẫn nhịn trong im lặng. Bài tập được thực hành
suốt thời gian ở biệt giam trong giai đoạn bị lấy cung. Cũng hay, tính nông nỗi
của tôi có phần giảm bớt. Tôi tiếp tục tập nó trong những ngày ở các trại lao
động, tôi dùng nó để nhìn lại từng ngóc ngách của đời mình trong đêm vắng.
Ban
đầu những chia ly với những người đồng cảnh làm tôi bịn rịn. Từng khuôn mặt
Trần Duy Cát, Đào Văn Thương, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Phú Hải… cứ lởn vởn
trong đầu hàng tháng trời khi tôi đặt chân lên trại Z30D.
Con
đường dài tù tội dạy cho tôi bài học phải dứt khoát những tình cảm vụn vặt đó.
Tôi trưởng thành hơn, chịu đựng hơn. Tôi ngạo nghễ hơn trước những khó khăn mà
mình gặp phải.
Tù,
một xã hội thu gọn, đầy bất công. Cái kiểu lớn hiếp nhỏ, giàu khinh nghèo vẫn
có đủ tính chất khốn nạn của nó. Nó càng rõ nét hơn nữa khi đối diện với kẻ
thù. Có khi người ta sẵn sàng bán đứng nhau vì lợi ích cho một lần được viết
thư về gia đình. Có lúc người ta bán cả danh dự đời mình vì cái chuyện không
chịu đựng nổi khó khăn. Đói khát là căn bản cho những tội lỗi này.
Hàm
Tân Z30D. Chỉ cách Sài Gòn hơn 100 cây số. Tiếp tế từ gia đình cho các tù nhân
ở đây có vẻ dễ dàng hơn. Nhưng những năm 77-80 cả nước rớt trong tình trạng
cùng cực, người ta không có cái ăn, thì trong tù càng thê thảm hơn. Đói làm mờ
mắt, đói làm tù nhân lê lết đi lao động. Thời ăn bo bo, gia đình nào khá giả
thì còn cố tằn tiện, dành để từng chút cho thân nhân của mình đang chết đói trong
trại giam. Có người được gọi tên nghỉ đi làm, ở trong trại chờ gặp gia đình.
Khi trở vào cầm trên tay cái túi con con, chứa mỗi kilo đường tán, vài viên
kẹo, một ít thuốc cảm. Hắn ôm mặt khóc ròng, không phải hắn thương cho phận
nghèo của hắn mà thương cho vợ con mình đã đôn đáo chạy ăn ngoài đời, còn phải
cưu mang mình, một thằng tù ngày về không thấy. Những giọt nước mắt khóc cho
thân phận kẻ bại trận, những giọt nước mắt có lẽ ngàn sau phải nhớ.
Trại
tù cũng có hai giai cấp thống trị và bị trị như xã hội bên ngoài. Sự đối kháng
giữa hai giai cấp này là nguyên nhân của gông cùm, xiềng xích. Đương nhiên là
cai tù lúc nào cũng chuẩn bị sẵn những nhục hình, có điều thứ nhục hình mà cộng
sản đã dùng trong các trại tù thời bấy giờ là một chính sách, dựa trên những
công cụ thống nhất từ trại trung ương đến địa phương.
2. Bầy Thiên
Nga trong khu rừng hoạn nạn
Phân
trại A Z30D, thời tôi có mặt, gồm 12 đội toàn là dân chính trị phạm, có án tập
trung cải tạo, nghĩa là những tù nhân không bị truy tố ra toà, 2 đội hình sự, một đội lâm sản, một làm tạp
dịch cho khu cơ quan, 1 đội nữ, 40 mạng, trong đó hơn một nửa là Cảnh Sát Đặc
Nhiệm Thiên Nga, xếp sòng là thiếu tá Nguyễn Thanh Thủy, nửa còn lại là các chị
em chính trị bị bắt sau 1975. Những nữ chính trị phạm này đều có án tập trung
cải tạo và đa số rất trẻ thường không quá 25, trong số đó nhiều nhất xuất thân
gốc Văn Khoa và Luật. Cho đến cuối năm 1979, khi đội nữ chuyển đi trại khác mới
có quân đội trình diện về đây, đa số các anh này từ các trại ở Phước Long.
Các
tù nhân chỉ đi lao động chung quanh phân trại, Hàm Tân là loại liên trại không
có diện tích lớn cho từng trại, chúng xếp dài theo Quốc lộ 1 thuộc khu vực Bình
Thuận. Nằm sát núi Mây Tàu, nên tù nhân không đi làm xa. Lúc tôi ở đây, rừng lá
buông bạt ngàn, những cánh rừng cây lồ ô, chằng chịt tới tận chân núi. Tất cả
xây dựng trại đều dựa vào hai nguyên vật liệu này, lá buông làm mái lợp, phần
còn lại là lồ ô từ sạp nằm, đến cột, kèo đều rặc ri lồ ô.
Hình
như với địa lý đó nên các tù nhân ai cũng học được cái nghề đan lát, nhất là
đội nữ, tôi thấy cả cái nón lá được phân phát cũng chèn thêm hay trang trí bằng
lồ ô chẻ, chuốt mỏng, cái giỏ đựng đồ cá nhân quí bà, quí cô cũng tự đan. Những
ngày thăm nuôi thì các món tự làm này được mang ra tặng cho người nhà làm kỷ
niệm thời đi đày. Lẽ dĩ nhiên để làm ra những sản phẩm như vậy, phải nhiều công
phu, tiêu tốn nhiều thời gian, tránh né đám cai tù và lũ trật tự lúc nào cũng
rình rập với mỗi một lý do:
- Không được làm chuyện riêng tư ảnh hưởng
đến thời gian học tập.
Coi
có chết không? Một qui định tào lao quá mức. Xét ra đi tiêu, đi tiểu, thay băng
vệ sinh… toàn mấy chuyện riêng tư, đầy tính lý cá nhân mà cũng tính luôn vào
“thời gian học tập”?
Nội
cái việc chuyển những món hand made này ra khỏi cổng trại cũng đâu đơn giản,
phải lót đường cho đám trật tự. Khi ra đi thăm gia đình, đương sự tù nhân bị
xét rất kỹ, sờ mó toàn thân, đó là theo qui định. Nhưng chỗ nào có qui định đều
có trừ lệ của nó. Thậm chí có khi phải mượn tay thằng trật tự mang ra cho gia
đình, hay mang qua khỏi cái cổng chết bầm của khu trại. Về khoản này các kiều
nữ xem ra có lợi thế hơn, lý do là trật tự toàn đực rựa, vì thế chuyện sờ mó
chi li sẽ không quá mức lúc kiểm tra ra cổng.
Một
chục đội nam, khi khổng khi không phải ở chung với 40 quí bà, quí cô, tùy theo
lứa tuổi ai ai cũng mặn mà, vẫn còn đâu đó kiểu dáng của môi son, má phấn hết
thì làm sao không sinh chuyện. Với hiện trạng đó, chuyện gởi một chút tình từ
bên đội nam sang đội nữ, nhất là của những người trẻ là điều không tránh khỏi.
Dĩ nhiên các cán ngố biết điều này, không ít lệnh lạc được công bố liên quan
đến cái vụ nam nữ trong trại. Thậm chí khi tập hợp đi làm, tất cả ngồi xếp hàng
trên sân theo đội hình, dù cái sân chà bá có thể chứa thêm vài chục đội nữa,
nhưng đội nữ của nhà 7 chỉ xếp hàng tập hợp ngay trước cổng nhà, cách xa đám
đực rựa hàng 10m. Ngăn cấm tiếp xúc, dùng đủ mọi biện pháp mà rồi đâu cũng vào
đấy.
Đội
nữ thì có cán nữ phụ trách, tuy vậy những gã ba ke, mới thò chân vào Nam cũng
thèm rỏ dãi, khi thấy nhan sắc con gái Nam bộ cho dù có bị tàn phai đôi chút,
nhưng cũng trên trời dưới đất so với răng hô mã tấu của bắc bộ. Nhưng làm sao
có cửa cho đám cán. Bên cạnh các nàng toàn là những tay coi trời bằng vung, nếu
không đẹp trai ra phết thì tinh thần chống cộng cũng hợp nhãn với nhau theo
đúng tình lý của “những con tương cận” có từ ngàn xưa.
Mỗi
ngày đi tắm suối một lần theo qui định, đội nữ luôn được ưu tiên, kể cả trong
lao động, các nàng là đội chuyên làm việc nhẹ so với đội nam. Khi quí bà, quí
cô tắm giặt thì nhiệm vụ các cán nữ phải dọn bãi, đề phòng mấy cán ngố rình rập
theo cái kiểu chiêm ngưỡng giữa rừng, có lẽ đã từng có những chuyện này xảy ra,
nên khi tôi tới đây, chuyện dọn bãi cho các kiều nữ tắm giặt hình như khá an
toàn. Đám tù nam phải tắm dưới nguồn và cách xa xa một chút, đó là qui định “an
toàn lao động” hình như qui định này chỉ xảy ra ở mỗi cái trại Z30D mà tôi biết
khi qua nhiều trại giam.
Một
điều khác nữa làm cho đám quản lý trại điên đầu. Buổi tối thì vệ binh súng dài
có khi đi vào sát hàng rào nhà kiểm soát xem có ai buồn tình đào hào khoét vách
gì không, nhà 7 cũng không ngoại lệ, mấy cán vệ binh thường là bộ đội công an
tò te, tuổi còn trong thời kỳ rạo rực tránh sao không tò mò. Quí bà, quí cô
dưới cái nóng của đụn cát trắng Hàm Tân lúc ngủ phải mong manh cho giảm nhiệt,
mà chắc cũng phải đành trần như nhộng trong lớp mùng chống muỗi sốt rét ở Hàm
Tân. Thậm chí để trêu ngươi lũ khỉ, các kiều nữ có khi banh càng chọc giận, cái
rắn mắc đó tới tai cai tù phân trại. Vậy là lệnh cấm các cán súng dài vào khu
nhà 7, chỉ có thượng úy Sáu làm trực trại đi cùng trật tự, tuần tra khu này mà
thôi. Tên này miệng rộng, tiếng to và hay nói nên anh em tù đặt hắn biệt danh
Sáu la. Đúng như người ta nói, phái yếu có cái mạnh rất đáng sợ.
Hơn
năm trời chung một trại tôi dần dà cũng quen biết hầu như gần hết đội nữ. Chị
Thanh Thủy thì khỏi nói rồi, được cái các chị thì thương, mấy em thì quí, nhất
là có đàn chị Lệ Hải của tôi, máu mặt số một trong đội nữ, hay khoe thằng nhóc
em ngang hông, nên lắm em cứ đòi làm dâu nhà chị.
Cùm
là một kiểu, nhưng có nhiều loại lớn nhỏ khác nhau, bọn chúng tha hồ chế biến
nhiều đòn phép để hạ gục những tù nhân bị chúng khép tội và đưa đi cùm. Ở Z30D
cũng thế bất kể nam hay nữ. Cùm là thứ mà ai từng đi tù thời cộng sản đều phải
biết, nếu không kinh qua thì cũng tận mắt nhìn thấy hay sờ tay lên nó.
Sáu
la, thượng uý cộng sản trực trại K1 của trại Z30D, lãnh trách nhiệm thi hành
lệnh cùm tôi vì tội chống lao động, xách động trại viên chống chính sách cải
tạo, hắn là thằng cùm tôi lần đầu trong những ngày tôi ra trại lao động.
Nhà
cùm nằm sát hàng rào nhà 7 nơi nhốt đội nữ, dĩ nhiên là tôi phải đứng trước sân
tập họp dưới sự chứng kiến của cả trại nghe đọc lệnh kỷ luật. Thằng an ninh
trại vừa đọc xong cái dòng cuối “thay mặt ban lãnh đạo trại đồng chí .. ” thì a
lê hấp hai thằng trật tự kè tôi đi ngang qua đội kiều nữ hướng về cửa nhà kỷ
luật, trực trại đọc tên đội cho đội nữ xuất cổng đầu tiên, để không ai trong họ
nhìn thấy những gì bên trong cánh cửa đang mở ra, cái thói việt cộng luôn là
vậy úp mở, dấu diếm làm ra vẻ quan trọng.
Cùm ở Z30D khá đơn giản, nó chia làm hai dãy
sạp nằm, trên lối đi mỗi bên đóng một hàng trụ gỗ cách nhau 2m, mỗi trụ gỗ, có
khoan mấy lỗ theo hàng thẳng đứng. Nhiều cây sắt dài 18 ly xỏ qua những lỗ này.
Bọn công an cho đánh một vòng thép tròn ở đầu cây sắt, đầu kia khoan một lỗ làm
lỗ khoá, cái khoá luôn nằm bên ngoài vách của nhà kỷ luật. Mỗi cái cùm đánh hai
cái vòng tròn để xỏ thanh thép đi ngang,
cứ hai hay ba trụ chúng chơi một cây sắt ngang, tuỳ theo độ cao của các
lỗ trên trụ.
Thằng
trật tự mở khoá bên ngoài kéo cây thép một đoạn, tới chỗ tôi nằm, Hắn lấy cái cùm tra vào cổ chân tôi, xỏ cây
thép qua, bước ra bên ngoài khoá lại. Cái cùm khá chật, cây thép lại nằm ở cái
lỗ cao nhất của cây trụ. Vậy là chân tôi bị treo tòn ten trên cây thép. Đòn này
là một chiêu biến hoá của lũ cai tù, những cái lỗ trên đầu trụ, cao hay thấp,
nói lên mức độ hình phạt mà đám cai ngục thực hiện. Đối diện tôi dãy bên kia
cũng có hai tay đang treo cùm trước rồi.
Ngày
đầu tiên vào nhà cùm. Tôi chưa kịp tìm cách liên lạc với bên ngoài. Nữ chúa Lệ Hải, bà chị giang hồ của tôi đã vội vàng “lên đài” ngay khi đi làm về. Buổi sáng đàn chị đã thấy thằng
em bị đưa đi cùm trên sân tập hợp rồi. Câu đầu
tiên đàn chị dặn dò là:
- Thằng nhóc, yên chí có gì chị sẽ lo.
Nhà kỷ luật chỉ cách hàng rào nhà nữ một khoảng hai tầm với, che chắn bằng những tấm gỗ mỏng làm vách, có những khe hở,
đó là chỗ mà đàn chị Lệ Hải chơi một cây dài treo thuốc hút, diêm quẹt, hay vài thứ cần thiết chọt qua khe
hở cho tôi.
Đàn
chị Lệ Hải, của thời Đại Cathay lúc tôi còn nhỏ xíu. Vào trại này chẳng nhớ rõ
cơ duyên nào mà bà chị lại thương tôi đến vậy. Tôi chỉ nhớ mang máng, có lần
tôi hỏi anh kỹ sư Phan Thành Trường về những nhân vật nổi cộm ở nhà 7, được
biết trong số đó là những Thiên Nga, thủ lãnh là chị Thanh Thủy, có Mộc Hoa rồi
Lan tếu và bà chúa Lệ Hải…
Mấy
hôm sau khi đi tắm suối lên, sắp hàng chờ nhập trại, hai đội đứng cạnh nhau,
tôi liếc sang bên thấy bà chúa Lệ Hải đang chơi một điếu thuốc trên môi, ngang
tàng không chịu được. Tôi chào chị bằng cái gật đầu. Bà chị nhìn thẳng thằng
tôi:
-
Nhóc, cậu đội 9 hả, vô lâu chưa?
- Dạ mới hai niên thôi.
- Phục quốc hả?
- Gần gần vậy, chị vào đây lâu chưa?
- Sau ngày sập tiệm.
- Ôi trời! Cái bang tám túi hả?
- Ráng lên đi, mai mốt về gặp, chị mời cậu
uống café Pagode
Vậy
thôi đó, mà tôi quen biết nữ chúa rằn ri, một nữ tù chính trị nổi tiếng, coi
trời bằng vung, coi đám chúa ngục như con, một thời khét tiếng ở Z30D.
Có
lần tôi đi lấy cơm cho đội ở nhà bếp, gặp chị đang gánh đôi thùng nước uống,
chị dừng lại ngay trước cổng nhà bếp:
- Nhóc, chị hỏi mấy anh cùng đội cậu, nghe
nói cậu khá lắm, chị khoái tính ngang ngang của cậu, chị nhận mày làm em chị,
chịu hôn?
- Dạ, em cám ơn bà chị.
- Cậu giỏi lắm, hôm nào chị cho cậu xem cái
đặc biệt của Lệ Hải nghen.
Chị
vừa nói vừa gánh đôi thùng nước, ỏng ẹo cái lưng chọc quê mấy tên đội nhà bếp
và tiến về phía nhà 7.
Cho
đến ngày tôi rời nơi đó. Tôi vẫn chưa có cơ hội nhìn thấy nét “đặc biệt” của nữ
chúa rằn ri. Vài anh lớp trước tôi thì kháo nhau rằng. Vô tình đi tắm suối, vài
người trong đám lâm sản, từng nhìn thấy hai chân của nữ chúa xăm nguyên hàng chuột
lớn nhỏ dọc theo đùi trong, bí mật này không phải ai cũng biết.
Buổi chiều các
cô Thiên Nga điệu đàng đi dọc hành lang nhà 7 để tìm
cách nói chuyện với bọn tôi, những tay đang bị cùm, Quỳnh Như cũng tới thăm hỏi
tôi, rồi Lan lùn, Huệ... Những kiều nữ trong đội Thiên Nga làm ấm
áp trong những ngày biệt giam, trong cùm gông của Hàm Tân Rừng Lá. Thứ tình người có được trong trại giam khác hoàn toàn với
thế giới bên ngoài. Nó chân phương, rõ ràng và rất nhẹ nhàng, không một đắn đo,
gian dối. Trong thế giới này, chúng tôi không có thời gian để “câu
giờ”
dù không có sự an toàn nào cho cách nhích lại của tình người, nó cũng phải vội vã, như chạy tìm nhau, như đã chuẩn bị từ muôn kiếp.
Quỳnh Như giả bộ gánh nước uống cho đội
từ nhà bếp,
trước giờ lao động buổi chiều. Nàng đi thật
sát hàng rào nhà kỷ luật nói nhỏ để tên
lính canh ngoài cổng không nghe.
- Anh ráng giữ sức khoẻ, về đội rồi tính, chớ có làm căng
với tụi chèo, nhớ nghen anh Khiết, cố nhịn nghen chàng của em.
Câu dặn dò ân tình đó, cùng với
mái tóc dài, đôi má lúm đồng tiền khuất vội qua khe hở, đã lởn vởn trong đầu tôi một dạo rất lâu.
Chiều
tàn là lúc các nhà chuẩn bị điểm danh, vô chuồng, thời gian rỗi rảnh duy nhất
trong một ngày tù là thời khắc này, sau buổi cơm chiều, các tù nhân có thể đi
bộ trên sân nhà, vội vàng trao đổi cho nhau thứ gì đó qua hàng rào ngăn chia
giữa nhà này nhà nọ, chuyển tin tức cho nhau. Dĩ nhiên làm những điều này thì
phải luôn ngó kỹ đám anten có lảng vảng gần đó không. Các Thiên Nga đi lượn lờ
gần hàng rào nhà kỷ luật, chia xẻ những
câu vu vơ, hứa hẹn một ngày mai trời lại sáng… Tất cả những điều đó là một nét
son của tình người, nó vượt xa cái tình huynh đệ chi binh, gắn bó, chân phương
vô cùng. Có lẽ đó là cái thật nhất trong muôn nghìn tráo trở luôn xuất hiện
trong các trại tù.
Một
đêm nằm gác chân trên cùm thép, tôi nghe giọng hát nho nhỏ của một kiều nữ bên
nhà 7 vọng sang. Bài “Tình Nhớ” , tiếng hát nghe như tức tưởi, tiếng hát xoáy
trong đêm Rừng Lá, giọng hát không điêu luyện, nhưng thời khắc đó nó tuyệt vời
làm sao. Tôi thả hồn theo cho đến khi vệt đèn pin quét sáng một vùng và giọng
Sáu la vang lên như hét:
- Có im không, còn ở đó mà lòng lạnh lùng,
lạnh lẽo hả, đúng là thứ văn hoá đồi trụy.
Tôi
rớt xuống, đau và thương một đời tù của chúng tôi.
Ngày
tôi ra khỏi cùm, đàn chị Lệ Hải gởi một túi to đùng qua tay tên trực sinh của
đội khi hắn xuống bếp gánh cơm, đàn chị khéo léo nhét trong đó nào bột, nào
sữa, thuốc bổ linh tinh, lại có cả thuốc hút diêm quẹt, cứ như là đi thăm nuôi.
Tôi biết chứ, đàn chị Lệ Hải ít khi có người nhà đi thăm, ba cái vụ này chắc là
các kiều nữ em út của bà, nhờ bà chị của chàng đưa sang, dĩ nhiên Quỳnh Như
không thể thiếu trong danh sách đó.
Tôi
cứ tà tà ở trong trại nửa tháng, khai bệnh không đi làm. Sáng ra bệnh xá, hết
tiêu chảy tới đau đầu, rồi sốt, mặc thằng an ninh trại có ghi thêm vào hồ sơ
rằng thì là tiếp tục biểu hiện chống đối sau khi bị kỷ luật hay đọc thêm một
lệnh cùm tiếp. Thấy tôi lì quá thằng y tá ngang xương đành tạm thời cho nghỉ
dưỡng sức.
Mỗi
chiều, trước lúc điểm danh tôi cùng dăm tay nữa, đứng ở cổng khu nhìn sang bên
kia, Quỳnh Như, Lan tiếu cũng ở cổng nhà 7, các nàng khác cũng thường theo cung
cách đó, chúng tôi cách nhau một cái sân rộng, ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi
tay, hoặc từng lời qua đôi môi nhấp nháy, ngôn ngữ của cặp nào thì cặp ấy nhận,
dứt khoát không thể lầm lẫn. Rồi một cái vẫy tay từ biệt, xếp hàng, vô chuồng.
Những
ngày mưa xuống thì buồn lắm, Mưa ở Hàm Tân thường ào ào, nằm dọc Trường Sơn dù
gần quốc lộ nhưng nó cũng thuộc dạng thung lũng, nước bốn bề đổ về và rút rất
chậm. Có khi con suối Lạnh tràn lên vào tận sân tập họp, toàn trại chìm trong
nước, ngập luôn con đường dẫn vào trại, trên đất cát nên cùng lắm qua đêm là
khô ráo, dù có để lại rác rưới rong rêu, đủ làm đám trực sinh mướt mồ hôi dọn
dẹp.
Cái
trại Hàm Tâm Z30D, có quá nhiều thứ để làm tôi nhớ. Đau, buồn, tủi, chất chứa
như một rừng lá buông.
Đội
quân nữ tù nhà 7, bị tống lên xe vào nửa đêm. Chúng tôi nhìn theo từ trong
buồng giam qua khe cửa, qua vách phên. Dưới bóng đèn chạy bằng máy phát điện
không đủ sáng, những nữ tù, những con Thiên Nga, đang tay xách, nách mang đồ cá
nhân, tập hợp trước sân nhà, nghe đọc tên và lên xe. Hình ảnh chị Thanh Thủy
chống tay leo lên phía sau xe còn cố quay lại nhìn căn nhà giam số 7, ngùi ngùi làm sao. Đàn chị Lệ Hải giả bộ
vướng víu hành trang, hình như đang mong ai đó vẫy tay chào biệt.
Dưới
màn đêm đen kịt của rừng lá. Tôi nằm ngay sát đầu nhà, nhìn qua khe cửa cho tới
lúc cái đèn sau của chiếc xe bít bùng mất hút. Tự nhiên lòng mình thấy như mất
mát cái gì đó, không phải là cảm giác bâng quơ. Nó giống như một điều rất lớn,
gần gũi vô cùng vừa tuột khỏi tay mình, con tim thắt lại. Đời đi tù những cảnh
chia tay là thường. Đất nước này có biết bao trại tù. Người đến, người đi. Cái
thứ chia tay không có cơ hội bịn rịn, chỉ có con mắt nhìn có đuôi cùng một chút
khôn nguôi trong lòng.
Những cánh Thiên Nga rồi cũng bay đi, bỏ lại giữa Rừng Lá biết
bao tình nghĩa khó phai. Ở đó có nhiều người buông tiếng thở
dài đưa tiễn.
Ôi!
những chiều trời quang mây tạnh, lúc đợi tập hợp điểm danh vô chuồng. Khoảng
cách từ cổng vào nhà 4, nhìn sang bên kia cổng nhà 7 nơi những kiều nữ của đội
Thiên Nga bị giam hãm. Chiếc áo tù trắng bạc màu như nhan sắc theo thời gian tù
tội, sau bao đòn thù trên da thịt, trong chịu đựng đầy ấp tang thương. Nhưng
những khuôn mặt vẫn ngời ngời. Chẳng biết thứ tình cảm đó là chi. Đứng ở đó,
hai bên nhìn nhau, nói với nhau qua ánh mắt trong một khoảng cách không thể
nhận rõ. Tội nghiệp cho cảnh tù, tội cho lớp người cùng khổ.
Thương
cho cái nghiệt ngã khi đi làm về hai đội gần nhau, xếp hàng chờ nhập trại, len
lén trao nhau một cái nhìn, dưới ánh mắt cú vọ của đám vệ binh súng kè bên
hông. Quỳnh Như, Hồng Đào, Lan Hương… Những người con gái của đội Thiên Nga tội
nghiệp ơi, bây giờ đã về đâu? Hỡi những cánh Thiên Nga từng đậu lại một đỗi
trong khu Rừng Lá, Hàm Tân.
Rồi
tất cả qua đi, lặng lẽ qua trong hoàn cảnh nghiệt ngã của đời đi tù, giữa bối
cảnh nước mất nhà tan chỉ để lại trong tim một mớ ký ức lộn xộn làm hành trang
cho một đời người mang theo về đất
Mưa qua rừng Lá
Tháng tám
đem về đây cơn bão rớt
mưa trên
nguồn làm úng cả trại giam
ta co ro nhìn
nước đổ trên ngàn
con Suối
Lạnh lấn sâu vào sân trại
mưa làm ta
nhớ ngày này năm trước
mỗi chiều về
đứng ngó phía bên kia
có bóng em
gởi nụ hôn sớt chia
trong hoạn
nạn một đời tù bất khuất
đội Thiên
Nga bây giờ bay tan tác
em của ta
chắc đâu đó giữa rừng
ta thương em
có đôi mắt dửng dưng
cười khinh
bỉ vào biệt giam lần đó
con Thiên
Nga mà đời như quên bỏ
đã kiên
cường trong sắc áo tù nhân
em ném vào
ta một chút bâng khuâng
trên Suối
Lạnh hôm đội về rất trễ
một ánh mắt
trao tình đâu phải dễ
dưới cái chăm
chăm của lũ cai tù
ta thương em
có mái tóc mùa thu
cái răng
khểnh luôn cười trên gánh nạn
con Thiên
Nga mà giặc thù ngao ngán
đã bao lần
cùm kẹp vẫn đứng trơ
đã khạc nhổ
vào niềm tin ngu ngơ
của đám giặc
khù khờ đi theo đảng
cánh chim
xưa, kỷ niệm có còn mang
khi bay khỏi
trại thù khu Rừng Lá
bầy Thiên
Nga cái tên không còn lạ
ríu rít nơi
nầy, một lúc rồi đi
nguyễn thanh
khiết
Z30D, 1978
(viết cho
đội Cảnh Sát Đặc Nhiệm Thiên Nga)
3. Những
trận đánh không cân sức
Đối diện nhà kỷ luật băng qua khoảng
sân trống đó là trạm xá. Khi tôi mới đến trại Z30D cái “bệnh viện tối tân” này
do một trung sĩ quân y tù nhân của phe chiến thắng trông coi, loại y sĩ không
trường lớp chỉ chữa cho tất cả các loại bệnh bằng mỗi thứ thuốc “xuyên tâm
liên”. Đến khi loạt sĩ quan quân đội về trại này, quyền điều hành được trao laị
cho đại tá Phạm Văn Hạt từng là cục trưởng Cục Quân Y VNCH từ 1958-1963.
Ông là một y sĩ lão thành, bên trong vóc dáng nhỏ người, hom hem đó là một trái
tim nhân hậu và là một cuốn tự điển y học sống. Nghe đâu về sau ông giải ngũ và
phụ trách làm Bộ Trưởng Ngoại Giao thời đệ nhị Cộng Hòa. Ông đã cứu hàng trăm
ca thập tử nhất sinh. Ông cũng là người cho tôi miễn lao động nhiều lần do “đau
bao tử”, sau ca nằm kỷ luật hết 15 ngày lần nữa vì chống đối lao động. Một cái
bệnh mà ông bảo nhỏ:
– Thằng điên, cậu cứ khai bệnh cảm
sốt thì phải đo thân nhiệt. Sao không khai đau bao tử cho chắc ăn?
Ôi! một cựu chiến binh đầy tình
nghĩa, luôn tìm cách giúp đỡ bên thua trận.
Tôi thuộc đội 9, đội trưởng là một
gã Miên rặc ri, tên Đào So, thư ký của đội này là Nguyễn Hữu Phú một thầy giáo
làng bị tình nghi dính tới Phục Quốc Quân và vô hộp từ năm 1976. Nhà 4 nơi tôi
ở còn có đội 20 và đội 13.
Tất cả nhà giam được thiết kế theo
thời tiền sử. Những khúc gỗ rừng cong queo, gánh những thanh đòn ngang thường
là những cây non ngoài rừng đủ loại hơi thẳng một chút. Trên đó, lồ ô đập dẹp
và bện khít lại làm chỗ ngủ và nó được làm hai tầng và làm thành hai dãy, mỗi
nhà có một phi đạo chính giữa, cuối phi đạo là chỗ đi vệ sinh ban đêm, trong đó
có hai cái thùng gỗ chứa phân và nước tiểu, văn minh một chút, nó có cánh cửa
dĩ nhiên cũng bằng lồ ô. Nhưng cửa ra vào nhà thì phải bằng gỗ, do một đội
chuyên nghề mộc làm với thiết kế khoá bên ngoài chắc chắn.
Đội 20 do Nguyễn Văn Nghị một đảng
viên hủ hóa làm đội trưởng, một số trong đội này là cán binh Bắc Việt can tội
tham ô, hay lem nhem các vụ liên quan chính trị, cộng thêm đa số từ các lực
lượng nổi dậy sau 1975.
Đội 13 là Vũ Văn Lộ, hình như là một
SVSQ khóa cuối của Võ Bị làm đội trưởng, Về sau này Lộ cùng tôi trên một chuyến
xe ra trại Xuân Phước. Tay này có căn nhà gần phở Tàu Bay đối diện Tiểu Đoàn 5
Quân Cảnh, ngày nay nó là bệnh viện Nhi Đồng. Chỗ đó, lúc học năm thứ hai
trường Luật tôi hay đến thăm ông dượng rể là thượng sĩ nhất Quân Cảnh dữ dằn số
một của TĐ 5, cũng nhiều lần ngồi trước tô phở bốc khói, có tiếng nhất nhì của
Sài Gòn ngày đó, bây giờ nó cũng tiêu tùng rồi.
Tôi ở tầng trên đối diện Lộ, giữa là
phi đạo, hắn sợ nóng nên chen nằm tầng dưới, bao vây hắn là những tay nổi dậy ở
miền Tây, dính dáng tới lực lượng Liên Tôn, cháu con những tay tướng tá Bình
Xuyên còn sót lại.
Sau cú điểm danh vào buổi tối, chúng
tôi có một khoảng thời gian ngồi với nhau. Nhà 4 này giam chính trị phạm. Họ là
những người của các mặt trận chống lại nhà cầm quyền hiện hành, trong đó có cả
các quân nhân, sĩ quan cấp úy, cấp tá, không trình diện, theo các đoàn thể đã
dấy lên lực lượng đối kháng khắp nơi.
Đội 20 có kỹ sư Phan Thành Trường,
có tổng thư ký hội Dịch Lý Việt Nam Cao Thế Nhân, có trung uý quân y dược sĩ Vũ
Văn Quang là em ruột của nhà truyền thông Vũ Văn Ánh, một anh chàng luôn có nụ
cười trên môi và trầm ngâm rất chi đạo mạo khi tâm sự với những anh em trẻ khác
về một vấn đề nào đó. Kỹ sư Trường gốc dân Tây làm một cặp bài trùng với Cao
Thế Nhân, hai lão này rất tâm đắc và luôn tặc tặc trên tay quẻ dịch hay minh
định một danh từ qua lăng kính toàn một mùi dịch lý học. Kỹ sư Vương Đình Bách
một trong những bậc thầy của trường Phú Thọ cũng góp mặt vào cộng đồng chống
cộng tới chết này. Bùi Mạnh Bái, Nguyễn Thành Công là một cặp khác nữa, nằm
tầng trên kế bên Vũ Văn Quang. Khu vực này là trung tâm cà kê dê ngỗng, nếu
không trúng vào đêm phải họp nhà, họp đội, sàn dưới còn có Ngô Bá Nhương nằm
sát Trần Tương, người từng tham gia cuộc đảo chánh hụt thời Đệ Nhất Cộng Hoà,
và lên đường ra Côn Sơn trên tàu Hàn Giang 401.
Đội 9 của tôi đa số là trẻ, nhiều
nhất là anh em từ Long Xuyên hay xuất xứ từ cái nôi của Phật Giáo Hòa Hảo nổi
tiếng là chống cộng quyết liệt. Lê Hữu Ích, Châu Văn Tài, Nguyễn Huỳnh Danh Vũ
dân Hòa Hảo nòi. Lại có cả Cao Hữu Vốn, một đại úy của sư đoàn 9, trốn trình
diện vô rừng U Minh lập căn cứ, bị vây bắt trên đường qua Long Xuyên. Lúc ở đây
tôi hay la cà với những anh em Hoà Hảo này, chí ít tôi từng có giao tình và
nhiều phen làm chung với họ ở một góc cạnh nào đó, trong cuộc bùng dậy của Miền
Tây trước lúc tôi bị bắt, từ giao tình này tôi gặp lại một người anh em từng có
mặt trong hàng ngũ ngày nào, khi tôi lặn hụp vùng Đồng Bà Chiêu khắc khổ.
Ở trại Z30D, Dũng với cái tên
dõm khi bị bắt là Nguyễn Văn Đát, con của hổ tướng Bảy Viễn dòng thứ.
Tình cờ chúng tôi gặp nhau trong
trại tù, tại cái nhà 4 thổ tả đó. Nó ở đội 13, nằm đối diện tôi, qua mấy điếu
thuốc lào tâm sự linh tinh, chúng tôi nhận được nhau, người cùng một nhà. Một
khuôn mặt mà tôi vẫn không quên mỗi khi nhớ cái thời lẫm liệt, coi cái chết
bằng không của mình. Việc tôi thua hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến anh em ở
Thốt Nốt, Dũng kể:
– Anh Điệp cho anh em rút vào Đồng
Bà Chiêu một thời gian, nghe ngóng và tiếp tục công việc dang dở. Lúc này đã có
rất nhiều các mặt trận, lực lượng nổi dậy nổi lên khắp nơi. Dù rằng con số bị
bắt vì âm mưu lật đổ chính quyền đã nhiều, nhưng không làm nản lòng anh em.
Sáu tháng sau khi tôi thua. Anh Điệp
tập hợp được một số đông anh em từ những đơn vị lẻ tẻ. Anh cho đào một đường
hầm trong nhà ra tận bờ sông Hậu. Anh đưa về gần 10 anh em thường trực tại đó.
Căn nhà này là bộ chỉ huy của liên đoàn.
Sư Đoàn Tây Đô 3 đã đánh hơi từ
những cuộc chạm trán với đám du kích địa phương. Anh bị chúng theo đuôi.
Một đêm giặc đem một tiểu đoàn vây
kín khu Ngả Ba Lộ Tẻ, chúng pháo sập căn nhà và tràn lên tấn công, cố tình bắt
sống anh Điệp. Dũng đang nằm trong hầm với anh, sau mấy loạt đạn đầu, anh Thành
bị bắn trúng ngực, Dũng kéo anh theo đường hầm chạy ra bờ sông, anh chết trên
tay nó, bỏ xác anh cạnh bụi chuối sau nhà, nó nhảy xuống sông thả nổi theo đám
lục bình trôi về bến đò Vàm Cống. Tất cả anh em còn lại đều bị thương và bị
bắt.
Nó bơi theo con nước cho tới sáng,
vào nhà bà cô nó cách đó gần 5 cây số. Thay bộ đồ nó lên xích lô đạp quay trở
lại, trà trộn trong đám dân hiếu kỳ đứng hai bên lộ. Dũng đứng nhìn, căn nhà
sập gần hết vì đạn cối. Xác anh Điệp nằm nghiêng phơi trên lề, vết thương ở
ngực phá một lỗ lớn sau lưng, mắt anh vẫn mở lớn. Dũng cắn răng nhìn một hồi
lâu rồi lủi vào đám đông chuồn qua biên giới theo đường về Tịnh Biên.
Anh Điệp chết. Liên đoàn trưởng Liên
đoàn A Lực Lượng Dân Quân Phục Quốc- Trần Chánh Thành tử Trận !
Có lẽ cho đến ngày tháng này anh
Điệp là chiến binh phục quốc đầu tiên tử trận ở Thốt Nốt Hậu Giang, miền Tây
Nam bộ. Người chiến binh Hoà Hảo đầu tiên, hiên ngang chết trên chính địa bàn
chiến đấu của mình.
Dũng nghe người ta kể lại, bọn khốn
nạn phơi xác anh ba ngày trên quốc lộ để thị uy và trả thù, sau đó chúng cho
gia đình an táng sơ xài tại chỗ. Dũng với ánh mắt còn đầy thù hận, nó nói:
– Anh Sáu, anh em mình mất anh Điệp,
mất thêm mấy anh em rơi vào tay tụi nó, sau cú càn quét của sư đoàn Tây Đô 3.
Có lần Dũng hỏi tôi:
– Sao anh né được, khi tụi nó hỏi
anh về những anh em liên quan?
Tôi kể cho Dũng nghe đại khái những
đương dầu với tụi tra án của việt cộng, cách tránh né để không làm anh em ở
Thốt Nốt tổn thương.
– Dũng ! Lần thoát sau cái chết anh
Điệp, Dũng về đâu? Rồi sao bị “tó” lại?
– Chôn cây P38 ở sau nhà, em mò
xuống Châu Đốc, tính qua biên giới thì một thằng trong nhóm cũ gặp em giữa
đường, ân oán giang hồ từ trước, nó tố với công an. Vô công an điều tra lòi ra
cái vụ chung anh Điệp, tụi nó lôi em về Thốt Nốt xác minh trước dân địa phương.
Một thằng chỉ vào mặt em: "Thằng này tui thấy nó đi chung cái
ông bị bắn chết mấy lần…". Hết đỡ, em thua.
Tôi ngùi ngùi, tuổi trẻ mà, sau ngày
sập trời, tôi cũng vậy có những cái thua lãng xẹt:
– Anh Điệp nhắc anh hoài, em chỉ
biết anh là anh Sáu Sài Gòn thôi. Đến khi anh hỏi em ở miền Tây có quen ai khu
Thốt Nốt không, là em nghi trúng phóc, qua hình dáng của anh mà anh Điệp thường
nhắc với em. Không có anh, anh Điệp cực lắm, lo ăn cho mấy đứa, kiếm đồ chơi
cũng khó, rồi trong Đồng Bà Chiêu từ từ bị thua sạch..mãi sau này lấy được chút
vốn thì anh Điệp tử trận.
Tôi thở dài:
– Cũng phải vậy thôi, mày coi. Đầu
tiên hai ba chục, lớp bệnh đau, không thuốc, lớp bị theo sát nút, lớp chết, lớp
bỏ đồng về. Chờ đợi lâu ngày không ai tiếp trợ, vậy thì còn chi mà mong mỏi như
anh em mình từng muốn. May mà anh không ở đó chứ nếu không chắc mày thấy cả anh
phơi xác chung anh Điệp rồi.
Vậy đó, cái tuổi trẻ hừng hừng như
lửa, húc vào chỗ chết coi như không. Tội thiệt, vậy mà cũng gọi là chiến đấu.
Chiến đấu cái con khỉ! Cú ra đi bỏ thành chẳng phải để làm anh hùng, chẳng để
mai sau đội đá vá trời, chỉ một thứ tuổi trẻ, hào khí đó có từ ông cha, trong
máu xương không chung cùng cộng sản.
Bỏ cái danh gọi chính nghĩa. Nó đơn
giản là không sống chung với giặc, vậy thì sống ở đâu? Chỗ nào trên quê hương
này không có giặc, ngoại trừ rừng cao núi thẳm, nơi hang ổ mà chúng đã bỏ lại
khi vinh quang ra thành. Cú đi không tấc sắt trên tay được mô tả bằng một câu
lạnh lùng “Đi cho có đi dù là nơi để chết”.
Hai anh em nắm tay nhau thật chặt,
cú nắm tay ly biệt. Vì sau đó, chẳng bao lâu tôi bị đày đi ra trại mới.
Cái xã hội chó chết hôm nay cũng đã
có hai loại người một thắng, một thua. Thắng thì được gì chứ. Oán hận dày thêm
chút nữa, dân chúng lánh xa, sợ hãi thêm chút nữa. Thua thì mất gì? Cái giang
san này đã tả tơi hơn 20 năm, mỗi tấc đất, tấc đường có bao bom đạn, có bao máu
xương chảy trên đó. Vỏn vẹn là hai chữ “mất nước”.
Những đêm dài khó ngủ, tôi cũng có
khi vắt tay lên trán nghĩ tới nghĩ lui, lâu ngày mình trở thành ông cụ non, bày
đặt triết lý sống, bày đặt tư tưởng bậy bạ mà bậy bạ nhất là vẫn còn ở trong
tù.
*****
Dã man, tàn nhẫn nhất mà thượng đế
sinh ra để trừng phạt con người. Ngoài giống muỗi rừng mang vi trùng sốt rét
nổi tiếng của châu Á, có mặt ở đây là đoàn hùng binh rệp. Lũ chúng nó sinh sôi
nảy nở đến chóng mặt, rệp từ trên mái lá, rệp từ đầu kèo, rệp giữa những thân
lồ ô đập dẹp dưới lưng, rệp chui trong những lỗ mọt của cái thang làm bằng một
đoạn gỗ, trên đó dát vài hõm sâu để leo lên tầng trên. Rệp trên nóc nhà, từ
trong mái lá rơi xuống. Rệp diễn binh giữa ban ngày dưới lớp lồ ô của tầng
trên. Rệp di hành dưới bóng đèn dầu mờ mờ để ở cửa ra vào và gần khu vệ sinh.
Một vệt đen như đội quân ào ào tiến, lùng sục mùi máu và mồ hôi người.
Riêng nhà 4 của chúng tôi, trăm con
người chui rúc, chịu đựng sự tấn công gần như vô phương kháng cự. Một ý lạ đề
ra, như trong một trận đánh, mỗi con người phải tự tìm cho mình cái thích nghi
nhất để chạy khỏi lưỡi hái tử thần, dùng tất cả cái thông minh của từng cá nhân
mà tạo lớp bảo vệ, cho dù nó chỉ tạm thời hay có còn hơn không, hoặc biết chẳng
được bao nhiêu nhưng vẫn phải làm và làm trong tuyệt vọng.
Chúng tôi giăng mùng ngược, chân
mùng quay lên trời và nóc mùng lót dưới lưng.
Con muỗi có khung hướng bay ngang
chứ hiếm khi từ trên tấn công xuống. Lũ rệp lại khác nó từ dưới chui lên, bò
dọc thành mùng, châm chít dưới lưng. Cuộc chiến, tưởng đâu là thắng lợi, sau
khi kèm thêm những trận càng quét vào mỗi ngày chủ nhật không đi “lao động xã
hội chủ nghĩa”, tất cả sân trái phải, trước sau của mỗi nhà, anh em đem quần áo
phơi nắng diệt rệp.
Chúng tôi dùng tới chiêu bom lửa để
tấn công chúng. Thật cẩn thận, dưới sự kiểm soát an toàn tối đa, một bó đuốc
nhỏ, quơ dọc ngang trên chỗ nằm từ đầu tới cuối nhà, trên, dưới và thật cẩn
thận phía gần mái lá, lá buông có độ bén lửa như tranh, sơ ý là thê thảm. Dĩ
nhiên trại thì cấm lửa, muốn hành quân kiểu này phải có tiền sát viên đứng hàng
dọc từ ngoài cổng khu cho tới trong nhà, một báo động là lập tức tất cả phải
bình thường, khó biết, trừ những thằng trật tự là đám chó săn đắc lực của trực
trại.
Cẩn thận đề phòng thằng Tâm mập, một
cán binh vc bị giam mà lý do không rõ ràng, ông già Mạnh, một hạ sĩ quan an
ninh quân đội bị bắt tại mặt trận khi chạy từ vùng 2 thì không ngại, ông ta
hiền và nhát.
Thua! chúng tôi thất bại dù thắng
trận đầu, quân rệp chết như rạ, hàng ngàn, hàng triệu con. Dưới trận bom lửa,
lũ rệp cháy khét bốc một mùi khó chịu, mùi cháy của máu người, kèm theo mùi đặc
thù khi bị đốt của giống rệp. Chết la liệt, chết từng đống, xác bọn chúng được
quét gom lại, nhìn thấy mà lạnh mình. Nhưng nó sinh sản nhanh cực kỳ, tuần sau
thì đâu vào đó, hình như không bớt đi chút nào. Lại bom lửa, lại càn quét.
Tới nước này, chúng tôi bó tay. Rệp
không di chuyển theo cách thông thường nữa, hình như biết chúng tôi căng
mùng ngược, lũ khốn nạn chơi trò “nhảy dù”. Từ trên nóc, hay trên tầng trên,
trên những cây đòn tay, kèo, chúng buông mình rơi xuống. Cú đáp tuyệt vời, cú
đáp mà những chiến binh của Nhảy Dù thua xa lắc. Cú đáp chính xác, không tiếng
động không mất thời gian cuốn dù, chúng tấn công liền tức khắc, sau đó núp dưới
góc mùng hay một chỗ an toàn, cho đêm mai, đêm sau nữa, không cần mất công cho
một “sô” nhảy. Thứ rệp chó chết này, chỉ cần cắn một nhát là cả một vùng da nổi
một dề mẩn đỏ ngứa, nhức và lâu tiêu cái mẩn đỏ khốn kiếp này hơn lũ muỗi.
Ôi! Một cuộc chiến kinh hoàng, xem
ra bên ta chết hết, địch vô sự. Tự do trên chiến trường với những cú hút máu từ
những thân thể ốm o thiếu ăn và kiệt lực.
*****
Tháng 9-1979, khi những con Thiên
Nga đã bay đi, chúng tôi gần trăm mạng, lọc lựa ra từ nhiều đội bị lùa sang
trám chỗ nhà 7 . Toàn là thành phần bất hảo dưới con mắt của bộ chỉ huy trại.
Bọn tôi bị cách ly hoàn toàn, cửa nhà đóng lại 24/24, trừ khi lấy cơm, nước và
đi tắm suối, vệ binh, trật tự án ngữ bên ngoài, mỗi một động tác đều bị rình
rập.
- Sẽ đi về đâu? Biết chi cho mệt, đi
đâu thì cũng là ở tù, có khổ thêm chút cũng rứa, bận tâm chi cho phiền.
Đó là câu nói của Hải Quân trung úy
Nguyễn Hưng Đạo. Anh là người nghiêm trang, chậm rãi, cẩn trọng từng lời ăn
tiếng nói, luôn nhẹ nhàng và hình như suốt nhiều năm trời ở chung với anh, tôi
chưa hề thấy anh giận ai hay lớn tiếng. Cha này quả là tuyệt.
Hai mai sư đoàn 18 Hoàng Ngọc Thủy
vỗ đùi:
– Tớ đoan chắc, tụi nó đưa mình đi
xa, ngó cái kiểu chuẩn bị của tụi nó là biết, mình nằm đây 10 ngày rồi, cao lắm
là một hai hôm sẽ lên đường.
Phan Thành Trường rất đạo mạo:
– Theo dịch động, lần này tụi mình
về phương đông, biến quái sẽ thê thảm hơn, mà nói chung không có gì ầm ĩ, cơ
cực thêm một chút thì đã sao?
Đại Úy Cao Hữu Vốn quả là không vui,
anh chen ngang:
- Mong sao nửa đường sinh chút
chuyện thì a lê hấp …dọt.
Bùi Mạnh Bái nãy giờ ngồi im cũng
bật dậy:
– Bàn chi cho mệt, đâu phải lần đầu
mà rối lên vậy các cha? Tỉnh bơ đi, tới đâu thì tới.
Vi Công Minh, người bạn cùng học
Trung Học Tây Ninh với tôi 7 năm, hắn là phân chi khu trưởng sau khi vào lính,
kéo tôi ra góc nhà nói nhỏ:
- Mày cố báo tin cho anh mày, ké cái
địa chỉ nhà tao, để gia đình biết.
- Ừ, nhưng tụi “chèo” canh như vầy
làm sao liên lạc, tao sẽ cố.
Minh vốn ốm yếu từ nhỏ, hắn có cái
bệnh viêm mũi kinh niên, bất cứ lúc nào cũng sụt sịt dù nắng hay mưa. Minh về
trại này và gặp lại tôi từ một trại Phước Long trong đội sĩ quan cảnh sát bị
bắt, cùng màu áo với hắn còn có Lâm Phước Xoàn, tay này học ở Nông Lâm Súc
nhưng lại cùng thời với tụi tôi. Xứ Tây Ninh nhỏ xíu nên loanh quanh ra đường
là gặp, nhất là với mấy tên có máu mặt ở tỉnh. Xoàn không có mặt trong danh
sách định mệnh này.
Lúc tôi tới trại này chưa có thành
phần sĩ quan trình diện ở đây. Cho đến khi bọn quân đội bàn giao những người
trình diện học tập cho công an quản lý. Chúng làm một phát xào tung các trại
lọc lựa theo thành phần, tiêu chuẩn chi đó từ Long Giao, Long Khánh, Suối Máu,
miền Bắc, Nam Hà, Nam Định. Chúng chuyển các đối tượng mà chúng cho là nguy
hiểm về một trại đặc biệt do chính bộ công an theo dõi sát nút.
Anh rể tôi, một đại uý Hải Quân cũng
từ Phước Long về Z30D, anh em gặp nhau chung một trại tù. Tôi có cơ hội nhờ anh
nhắn gởi dăm câu cho ba má tôi, bởi nhiều tháng rồi tôi bị cấm viết thư do cái
tật chống đối của mình. Trước khi anh đến đây, tôi lại vừa từ xà lim ra được 1
tháng. Có một điều an lòng, tôi đã nhờ anh thay tôi săn sóc ba má tôi, anh nhận
lời bằng một cú gật đầu:
– Mầy yên tâm.
Tôi và anh ấy như vậy, anh coi gia
đình tôi là ruột thịt, đối xử với em vợ như em ruột của mình, trật dây nịt là
chửi tắt bếp, anh em chúng tôi nhìn anh ấy như một ông anh ruột.Trước khi lấy
chị tôi được một năm, anh ta từng sang Mỹ thụ huấn khoá 1 OCS, dân đi biển
chính tông.
Ngày chuyển về Hải đội 2 Duyên
Phòng, anh kéo tôi ra đó, như một món quà cho cái bằng tú tài 1 của tôi. Chuyến
hải hành đầu tiên của tôi trên chiếc PCF, anh làm thuyền trưởng, anh dạy tôi
các thứ. Giữa biển mênh mông tha hồ tập bắn súng, P 38 là sở trường của tôi,
M16 cũng thuộc loại có cựa, sau một tháng trời lênh đênh trên sóng nước. Vì thế
lúc ở Quang Trung trừ cái vụ bò trườn linh tinh chứ trên bãi tác xạ thì khỏi
lo. Tôi còn được các sĩ quan, bạn bè của anh dạy cho đủ thứ, lái tàu như một
thủy thủ, cặp bến, tách bến, sóng ngang, sóng dọc tôi rành như tay chuyên
nghiệp. Tôi từng lái thay anh giữa bão miền Trung, như một giám lộ có tay nghề
trên hải bàn chi chít số, trung tá Pháp chỉ huy trưởng hải đội lại khoái và hay
rủ tôi theo ông tung hoành ở Qui Nhơn một dạo. Cho nên cái thuở học trò tôi học
về lính nhiều hơn sách vở.
Anh em chúng tôi biết là phải chia
tay nhau nhưng vô phương tiếp xúc hay gặp mặt. Chuẩn bị cho tôi lên đường, anh
đã canh tụi chèo. Xuống nhà bếp lấy cơm cho đội cùng lúc với tôi để chuyển cho
tôi vài thứ cần thiết, một chia ly thật là có hậu. Anh Đạo và anh Thủy cùng một
số anh em sĩ quan về trại này trong đợt đó, tiếc là ông anh rể của tôi không
cùng một chuyến. Một chuyến đi có nhiều thứ gai góc hơn, đòi hỏi ít nhiều can
đảm và chịu đựng hơn.
Bỏ lại Rừng Lá, bỏ lại gần 3 năm với
đủ thứ kỷ niệm tù, bỏ lại con Suối Lạnh, chúng tôi lên một đoàn xe bít bùng.
như những cánh chim ra khỏi tai ương của một cánh rừng, sẵn sàng đến với một
tai ương khác.
Nói là đi, vẫn thấy bâng khuâng, nói
là hận chỗ đã giam cầm mình như con thú tật nguyền lòng vẫn se lại. Đời đi tù,
qua một trại chắc gì quay lại, ai muốn quay lại làm chi, nhớ một câu văng vẳng
bên tai “Đừng tắm hai lần trên một dòng chảy”
Ừ thì đi, tôi và Vũ Văn Lộ ngồi
chung một xe, nhưng tôi bị còng tay với một tay khác cũng dân nhà binh. Tôi nói
với anh ấy:
– Tụi mình uýnh trận khác và cầm
chắc cái thua.
– Ừ không thua mới lạ, dẫu sao cũng
thua lâu rồi.
Đoàn xe của những chiến binh thua
trận lần hai lên đường trước khi trời sáng. Rừng Lá im re, không gió, không
chiếc lá nào lay động tiễn đưa.
A20 nguyễn thanh khiết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét