Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Chí Thiệp. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Chí Thiệp. Hiển thị tất cả bài đăng

1/7/12

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Chương 1



Chương Một

Những chiếc trực thăng Chinook và UH-1 cuối cùng khuất dạng về hướng biển, trời Saigon trở lại vắng và buồn, thỉnh thoảng đâu đó vang lên một tràng đạn lẻ tẻ, đường đạn vạch lên khung trời xám mờ đục. Thật xa, một vài tiếng đại bác cầm chừng. Mọi nhà đóng cửa, hoặc cánh cửa sắt kéo lại chỉ để khoảng trống một người đi, trên đường chỉ có những người lính tan hàng mặc áo trận, quần đùi lặng lẽ và hối hả từ ngoại ô đi vào thành phố. Những người không di tản kịp dìu dắt nhau trở về nhà, mặt ai nấy buồn xo thất vọng, lo âu. Saigon hồi hộp chờ Quân Đội Giải Phóng vào tiếp thu. Đài phát thanh ban lệnh của Tướng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi các đơn vị giữ vững vị trí.

6 giờ 30 chiều, ba tôi không mở đài BBC như mọi ngày, ông hoàn toàn thất vọng vì biết chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa nên không cần theo dõi tin tức thời sự. Đài phát thanh BBC là cơ quan truyền thông ảnh hưởng trong đời sống dân Việt Nam nhất. Những người có quan tâm ít nhiều đến tình hình chính trị đều nghe và tin vào tin tức, và lập luận của đài. Có thể nói đối với miền Nam Việt Nam vào thời đó, đài BBC có sức mạnh làm sụp đổ một chính phủ, làm thay đổi được một cục diện chính trị. Không hiểu vì vô tình hay cố ý, thời gian từ sau ngày Ban Mê Thuột thất thủ, hầu như đài BBC đều loan những tin tức bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa.

Tỉnh Quảng Tín chưa mất, họ đã loan các tin tỉnh đã mất trong bản tin tức tối 25-3-1975. Phóng sự “cuộc giao lưu của hai nền văn minh Honda và xe đạp” tại Đà Nẵng ca ngợi Việt Cộng như một đoàn quân chính nghĩa.

Sau khi tuyến phòng thủ Xuân Lộc vỡ, chính phủ Vũ Văn Mẫu yêu cầu phái đoàn quân sự Mỹ DIA, DAO rút lui, ba tôi không tiếp tục nghe đài BBC, ông chỉ ngồi thở dài.

7 giờ sáng ngày 30-4-75, đài Saigon loan tin Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện và lệnh của Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cho các đơn vị trưởng quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiếp xúc với cấp chỉ huy “quân giải phóng” để bàn giao địa điểm. Tôi đã khóc, cả nhà tôi khóc, dù tin đó không đột ngột. Một tháng trước đây, khi nhận được cú điện thoại của người bạn từ Đà Nẵng cho biết “quân giải phóng” đã vào thành phố, tôi cũng đã khóc, đầu gối mềm nhũn ra, đứng không vững.

Ngày 25-3-75, từ Saigon tôi về Đà Nẵng để đưa gia đình ba mẹ và các em tôi vào Saigon. Cuộc di tản kinh hoàng ra khỏi thành phố quê hương tôi, đã ảnh hưởng đến tinh thần của tôi. Tôi chán nản cùng cực. Một trong những lý do khiến tôi không rời Saigon ngày 30-4-75.

10 giờ kém 15, toán quân Bắc Việt đầu tiên kéo vào trung tâm Saigon qua ngả đường Hùng Vương, Thị Nghè, đi đầu là những xe tăng T.54 và thiết giáp PT-76. Cần anten trên mỗi xe có gắn cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thỉnh thoảng một xe gắn cờ Đỏ Sao Vàng của Bắc Việt. Chiếc tăng đi đầu đậu lại trước nhà tôi vì trên cầu Thị Nghè còn một chiếc M-41 án ngữ. Một tràng đại liên của người lính dũng cảm cuối cùng nào đó từ M-41 làm số người tò mò ra đứng hai bên đường chạy rạt vào các nhà và các hẻm. Một người lính Cộng Sản ngồi trên xe tăng và hai người lính Cộng Hòa tan hàng đi trên đường chết ngay lúc đó. Có lẽ đó là những người lính bất hạnh chết cuối cùng tại giờ kết thúc cuộc chiến. Đoàn xe tăng Cộng Sản lùi một đoạn và chuẩn bị tư thế tác chiến. Hai phát đại bác của họ làm cháy chiếc M-41, trong đó có người lính thiết giáp chiến đấu để tự sát. Một người lính Biệt Động Quân tan ngũ bị thương lết vào nhà tôi xin băng bó.

“Quân giải phóng tiếp tục vào thành phố, sau đoàn xe tăng và thiết giáp, họ đi bằng Molotova, xe Bắc Kinh, xe Jin, GMC và xe Jeep. Những người tò mò lại ra đường đứng thưa thớt vẫy tay, chào ngượng ngập và e dè. Một vài người chỉ trỏ vào một người ngồi trên xe Jeep trông dáng mập mạp, oai vệ, khác với vẻ ốm yếu tiều tụy của các quân nhân “giải phóng” khác, thầm thì với nhau: “Tướng Dương Văn Nhật”. Từ lâu vẫn có tin đồn Tướng Dương Văn Minh có người em là Dương Văn Nhật bên hàng ngũ Cộng Sản. Người ta đồn Tướng Dương Văn Nhật chỉ huy trận Bình Giả năm 1964. Hôm nay, người ta lại đồn Tướng Dương Văn Nhật vào tiếp thu Saigon, nhận sự đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh.

Trong xã hội miền Nam thường có những tin đồn đãi, và người ta tin ở những tin đồn hơn là sự giải thích của các cơ quan thông tin của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Khi một chính quyền không được dân chúng tin cậy, đó là hiện tượng phổ thông. Những tin đồn thường không có lợi cho chính quyền Cộng Hòa, có thể đó là một lối tuyên truyền của Cộng Sản, và những tin đồn chỉ phát xuất từ một số người vô công ngồi rồi, ăn nói vô trách nhiệm. Cũng có những lời đồn là sự thật, sự thật về các bê bối trong thâm cung bí sử của các nhân vật lãnh đạo mà không ai dám nói công khai. Cuộc chiến ý thức hệ vô tình cũng như cố ý làm thành cuộc nội chiến. Về phía Cộng Sản, họ che dấu hình thức chiến tranh ý thức hệ thành cuộc chiến tranh giải phóng để tạo chính nghĩa, và phía Việt Nam Cộng Hòa, không đủ khả năng thuyết phục dân chúng chiến đấu chống Cộng Sản, một thứ ngoại xâm tư tưởng, sử dụng người Việt làm phương tiện.

Đài truyền hình Saigon phát hình ảnh chiếm Dinh Độc Lập, chiếc T-54 ủi sập cánh cổng chính không một kháng cự, người lính từ trên xe nhảy xuống cầm cờ Giải Phóng chạy vào Dinh, lên tầng lầu đứng vẫy, biểu dương chiến thắng. Sau đó, cờ được kéo lên trụ cờ ở nóc Dinh. Tôi cố kềm hai dòng nước mắt lăn vô ích trên má.
Chính phủ Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Phía Cộng Sản, một người sĩ quan không được giới thiệu tên; bên đầu hàng, tôi nhận ra các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Văn Hảo, Lý Quý Chung và một số người khác.

Kết thúc 21 năm chiến đấu bằng sự đầu hàng vô điều kiện sau một tháng đổ sụp của một đội quân không chiến đấu, từng tỉnh, từng sư đoàn bỏ chạy trước khi quân địch đến.

Chỉ có Sư đoàn 18 Bộ Binh giữ trận tuyến Xuân Lộc và Sư đoàn 5 Bộ Binh giữ trận tuyến Chơn Thành được vài ngày.

Trận chiến 21 năm tàn khốc, có khi giành nhau từng tấc đất, ngọn đồi, rồi kết thúc bởi một sự sụp đổ mà trong đó người thua không biết vì sao mình thua nên ấm ức, dằn vặt, tiếc nuối. Kẻ chiến thắng cũng không hiểu sao mình chiến thắng. Sau này đọc hồi ký của Tướng Văn Tiến Dũng càng thấy rõ điều đó, Chính Trị Bộ Bắc Việt dự tính năm 1976 mới tổng tấn công mà năm 1975 họ đã chiến thắng, cũng như hồi ký của Tướng Trần Văn Trà cho biết quyết định tấn công là quyết định của các tướng ở chiến trường miền Nam, trong khi bộ phận đầu não ở Hà Nội không có một triển vọng chiến thắng quân sự trong một thời gian ít ra là 2 năm.

Càng đọc, càng nghe, càng đau, đau cho cá nhân mình, đau cho bạn bè đã nằm xuống, và đau cho thân phận nhược tiểu. Người ta cần đánh, người ta bơm vũ khí lương thực để đánh. Người ta không cần đánh, người ta rút bỏ mọi phương tiện, tổ chức các cuộc rút lui để khóa tay người chiến sĩ. Hệ thống truyền thông được sử dụng làm tan rã hàng ngũ và họ cũng không quên sỉ nhục những người từng được họ ca tụng như chiến sĩ anh hùng đã chiến đấu bên cạnh họ. Trong gần 30 năm chiến đấu chống Cộng Sản, người chiến sĩ chống Cộng Việt Nam như là “hiệp sĩ mù nghe gió kiếm”, đỡ gạt, tự vệ, tấn công giới hạn khi bị địch tấn công, mà không nhìn được tận mắt kẻ thù, không nhìn rõ ý nghĩa cuộc chiến, không lập được kế hoạch chiến đấu với đầu óc của mình nên không tự lực chiến đấu và cũng không tự mình làm thua trận.

Suốt đêm 30-4, Đài Truyền Hình Saigon chiếu những bộ phim tuyên truyền về những cuộc hành quân xuyên Trường Sơn, người bộ đội Bắc Việt hành quân dưới bom đạn của Mỹ, những thanh niên xung phong nam nữ đội bom mở đường cho bộ đội tiến quân, cảnh những thanh niên dầm nước lũ của các con suối dưới trời mưa tầm tã kê vai gánh những thanh sắt thành chiếc cầu tạm cho quân xa vượt qua. Vốn đã khâm phục về sự chịu đựng gian khổ của quân Bắc Việt, những hình ảnh tuyên truyền đó làm tăng sự khâm phục của người miền Nam.

Meeting mừng chiến thắng và diễn quân mừng ngày Lao Động 1-5-1975 được tổ chức thật nhanh và thành công, người Saigon túa nhau đi xem, họ được tận mắt thấy những hỏa tiễn 122 ly, pháo 130 ly, phương tiện hỏa lực từ sau trận Mậu Thân đã nhiều lần làm họ khiếp đảm.

Phim “Sống Như Anh” về cuộc đời của một “thần tượng” mới, “thần tượng Nguyễn Văn Trổi”. Vì chỗ bà con trong họ với chú Trọi (tên thật, sau khi chết hệ thống tuyên truyền Việt Cộng đổi tên là Trổi), tôi biết chuyện phim 9/10 là ngụy tạo giả dối. Chú Trọi hiền lành, từ làng quê, tránh chiến tranh vào Saigon làm nghề thợ điện, chú ở nhà một người cùng làng trong khu Trương Minh Giảng, đó là một cơ sở Việt Cộng nằm vùng. Chú được móc nối giao công tác đặt mìn cầu Công Lý để nhằm giết MacNamara. Công tác thất bại, bị bắt, bị án tử hình. Sau khi chú Trọi bị xử bắn, đài Bắc Kinh loan tin là chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đổi tên công viên Bắc Kinh thành công viên Nguyễn Văn Trổi - Chính phủ Cu Ba loan tin đổi tên Đại Học La Habana thành Đại Học Nguyễn Văn Trổi - Cả một chiến dịch tuyên truyền của Cộng Sản quốc tế làm Nguyễn Văn Trổi thành anh hùng chống Mỹ. Truyện, phim viết về Nguyễn Văn Trổi thành một thần tượng anh hùng. Thời gian những năm đầu mới chiếm miền Nam, đâu đâu cũng thấy tên Nguyễn Văn Trổi, bệnh viện, công viên, đường phố, trường học. Trong cuộc chiến đấu, Cộng Sản tạo nên những thần tượng để tuyên truyền. Lúc nhỏ ở vùng Cộng Sản trong đoàn ngũ nhi đồng, tôi được dạy Bác Hồ là người nhà Trời, Bác Hồ có hai con ngươi ở mắt, người thường có một con ngươi, người ta chỉ cho trẻ con chúng tôi hình Bác Hồ trong con mắt có hai điểm sáng nổi bật trong tròng đen của mắt. Sau này lớn lên tôi mới biết, khi chụp ảnh dưới một góc sáng nào đó, mắt người nào cũng có hai điểm sáng. Tôi cũng được kể chuyện Bác Hồ bắt gián điệp, Pháp gài một tên gián điệp huấn luyện ở Ăng Lê, tên Tạ Đình Đề về xâm nhập để ám sát Bác Hồ. Tên gián điệp đó đến nhà Bác, nằm ở trên máng xối, chờ cơ hội giết Bác. Bác biết (vì không có gì Bác không biết trước), Bác bình tĩnh giở nồi cơm và bới hai chén, dọn thức ăn, ngồi xuống ung dung, gọi tên gián điệp ra ăn cơm với Bác. Sau nhiều lần bị khám phá như vậy, tên gián điệp khâm phục Bác xin quy hàng, sau thành ra một cán bộ trung kiên của Bác. Nhiều nữa, người ta kể rất nhiều huyền thoại Hồ Chí Minh.

Ông Hồ Chí Minh đi làm cách mạng, về nước ông gặp được nhiều thuận lợi. Thứ nhất, là đảng viên của Cộng Sản quốc tế, ông có tầm nhìn rộng rãi về tình hình và những biến chuyển thế giới sau Đệ Nhị Thế Chiến. Thứ hai, dân chúng Việt Nam đang thiết tha độc lập, lợi dụng được lòng yêu nước của toàn dân, ông dễ dàng áp dụng sách lược cách mạng của Lenine ngụy trang cuộc chiến tranh ý thức hệ, cuộc cách mạng vô sản chuyên chính dưới chiêu bài giải phóng dân tộc. Hệ thống tuyên truyền của Việt Cộng càng ngày càng tô điểm hình ảnh của ông thành một người phi thường. Đúng như ước vọng của người dân còn nặng óc tôn quân văn hóa nông nghiệp, họ luôn luôn nghĩ đến một người lãnh đạo phi thường, một đức minh quân với những quyền uy thiên phú.

Chủ trì cuộc diễn binh là Chủ tịch Tôn Đức Thắng, bên cạnh có Lê Đức Thọ, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trần Văn Trà ... Trừ các tướng mặc quân phục; phía chính trị, ông Tôn Đức Thắng đến Lê Đức Thọ, mọi người đều mặc áo sơ-mi cụt tay, bỏ ngoài quần, rất bình dân; một đoàn thiếu nhi quàng khăn đỏ và các lẵng hoa. Chủ tịch Tôn Đức Thắng đọc thật vất vả bài diễn văn chào mừng chiến thắng độ hai trang giấy, giọng run run và nhiều lần cà lăm, cụ già đọc chữ không thông có thể vì mắt mờ không thấy rõ chữ, hoặc dịch không kịp chữ quốc ngữ. Thỉnh thoảng người cán bộ đứng hầu quạt phải tiếp ông cụ già một ly nước hoặc một viên thuốc.

Khi nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, giọng cụ Tôn Đức Thắng tỏ ra nghẹn ngào, cụ ngừng đọc, rút khăn lau nước mắt. Mọi người trên khán đài lấy khăn lau nước mắt.

Thành phố Saigon đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. Người và các sản phẩm tràn ra chợ trời Trương Minh Giảng, ở đó có thể mua đủ thứ hàng từ các kho bị đánh cướp trong “ngày giải phóng”, và hàng từ các vật dụng trong nhà của dân Saigon. Saigon bình yên và ít biến cố nên người dân ít giữ tiền, sau vài ngày thảng thốt ban đầu, người ta bắt đầu nghĩ đến thực tế, phải có đồng tiền thay thế lương bổng, và các lợi tức gia đình - muốn có tiền chỉ còn cách duy nhất là đem đồ đạc trong nhà ra bán, giữ lại tối thiểu vật dụng còn thì bán hết, bán để lấy tiền, bán vì sợ có thể bị ghép tội, như các loại máy chữ, máy quay phim, máy ảnh được đem ra bán nhiều nhất với giá rẻ. Người ta phân vân chưa biết “chính quyền cách mạng” sẽ làm gì, chỉ có phán đoán và truyền những ước đoán của mình cho người khác. Người ta đi sắm xe đạp, may áo quần đen, bỏ giầy đi mua dép râu. Cái hiểu biết quá đơn sơ về Cộng Sản nên đa số chỉ nghĩ là phải khổ và chịu khổ được, chịu ăn mặc xấu xí được là có thể sống yên thân trong chế độ Cộng Sản. Chợ trời trao đổi buôn bán tấp nập. Các khu phố chính Lê Lợi, Tự Do, Lê Thánh Tôn, Gia Long đóng cửa im ỉm, nhiều nhà xác nhận sự hiện diện của gia đình bằng cách bắc cái ghế, đặt một cái mâm trên để vài chén chè, vài đĩa xôi để bán, trông như cảnh ma chay tập thể với những món đồ cúng đơn sơ.

Trên các lề đường, hình thức sinh hoạt kinh tế mới mẻ, những quán cà phê vỉa hè, những chỗ vá xe đạp và quán làm và bán dép râu. Xe hơi bỏ ngổn ngang trên đường phố chỉ bị gỡ lấy lốp xe để làm dép râu. Nhưng những người làm dép râu không phát đạt được lâu, chỉ thời gian đầu có những người lo xa, những người có chương trình về quê canh tác, những viên chức sĩ quan đi học tập cải tạo. Đa số dân Saigon không chịu mang dép râu đội mũ tai bèo.

Các quán cà phê vỉa hè thì do các em nữ học sinh hay nữ sinh viên, các em gái con nhà đàng hoàng mở ra để có sinh hoạt qua ngày chờ những biến chuyển khác từ chính quyền ban xuống. Quán cà phê cũng còn do các em vũ nữ sau khi vũ trường đóng cửa hay các em gái giang hồ tạm ngưng hoạt động ở các động, các đường hẻm, vì sợ - ai cũng sợ, sợ chính quyền cách mạng và lo âu không biết cuộc đời họ sẽ thay đổi ra sao.

Người lính giải phóng trông ngờ nghệch, lúng túng trước cảnh rộn rịp và to lớn của Saigon, phần lớn họ rất trẻ. Trong hàng ngũ cán binh của Cộng Sản nổi bật hai lớp tuổi, thành phần thật già và thành phần thật trẻ. Tuổi trung niên thật hiếm, có lẽ hầu hết đã chết trong cuộc chiến. Nhìn vẻ ngờ nghệch, quê mùa của lính cách mạng, có người tức tối vì miền Nam thua một địch thủ không xứng đáng, nhưng cũng có người khâm phục, cho đó là sức mạnh của kỷ luật. Đài Truyền Hình Saigon phát hình cuộc phỏng vấn Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ, cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa. Ông Vỹ thán phục tinh thần kỷ luật của Quân Giải Phóng, ông tưởng tượng nếu quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào thủ đô Hà Nội thì theo ông, chắc chắn sẽ xảy ra bao cảnh cướp bóc, hãm hiếp, giết người. Nghe ông Vỹ so sánh, tôi thấy xót xa cho những người lính Cộng Hòa mà ông Vỹ gọi là “ngụy quân”, từ ngữ của kẻ chiến thắng chỉ người chiến bại. Nếu một người dân bình thường nào đó so sánh và phát biểu, tôi không đau đớn, vì người dân đó, hoặc do một thiên kiến, hoặc do một sự hiểu biết không đầy đủ, cục bộ; đằng này sự phát biểu từ một người từng là lãnh đạo quân đội Việt Nam Cộng Hòa, lãnh đạo từ khi nó còn là Quân Đội Quốc Gia; người giữ chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng lâu nhất. Nếu một quân đội vô kỷ luật thì trách nhiệm của ông Tổng Trưởng Quốc Phòng như thế nào? Tôi chỉ là một sĩ quan biệt phái, thời gian quân vụ của tôi chỉ là thời gian huấn luyện ở Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra làm việc nhiều khi sát cạnh với người quân nhân tại các quận, nhiều lúc tôi cũng chiến đấu như người lính để bảo vệ quận khi bị tấn công hay pháo kích, làm việc ở Tỉnh Quảng Nam nơi có nhiều đơn vị quân đội Việt Nam và đồng minh đóng như Trung Đoàn 51BB, Sư Đoàn 2, Sư Đoàn 3, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Bộ Binh Hoa Kỳ, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, Sư Đoàn Thanh Long Đại Hàn - 18 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Tiểu Khu. Trong suốt sáu năm ròng từ 1966 đến 1973, thời kỳ chiến trường sôi động nhất, nhưng những vụ do binh sĩ sách nhiễu dân chúng hầu như chỉ có lẻ tẻ, không ở mức độ quan trọng. Tôi nhớ lúc nhỏ, làng tôi có một đồn do một Đại Đội Pháp và Commando đóng, những vụ hiếp dâm, đốt nhà, cướp của xảy ra ngày một.

Đất nước chúng ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh quá gần nhau, là một cuộc chiến thời Pháp-Việt và cuộc chiến do Bắc Việt xâm lăng. Bản chất hai cuộc chiến khác nhau nhưng ít người nhận thấy, Cộng Sản họ cố tình đồng hóa hai cuộc chiến làm một - họ đồng hóa vai trò của người Mỹ giống như người Pháp, nên những xấu xa của những người lính viễn chinh Pháp họ gán cho người Mỹ, và những xấu xa của quân đội thuộc địa Pháp kể cả những người lính Commando hay Partisan của người Việt Nam vào lính Việt Nam Cộng Hòa. Những thay đổi, những tiến bộ của người lính Việt Nam Cộng Hòa không ai chịu nhìn nhận. Với những thiên kiến họ làm trầm trọng hóa những lỗi lầm nho nhỏ, vô tình hay cố ý phụ họa theo tuyên truyền của địch.

Người dân thành phố vô tình và người dân thôn quê bị Cộng Sản tuyên truyền mới nghĩ khác hơn. Tôi không thể tưởng tượng được người ngộ nhận đó là ông Tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng. Nhận xét của ông Vỹ có thể do sự hèn nhát, muốn nói cho vừa lòng những người Cộng Sản phỏng vấn ông, hoặc với tinh thần một người lính thuộc địa, từng mang quốc tịch Pháp, những người thực dân đã dày xéo đất nước gần 100 năm, thời còn là binh sĩ hay sĩ quan cấp nhỏ, ông đã từng bắt chước theo quân đội mẫu quốc của ông về các hành động hãm hiếp, cướp bóc, nên luôn luôn nghĩ binh sĩ dưới quyền của ông cũng xấu như vậy.

Thật đáng thương cho những người lính Cộng Hòa đã chết trên chiến trường và sắp chết trong ngục tù Cộng Sản, họ phải chiến đấu dưới quyền chỉ huy của những tướng lãnh như ông Vỹ. Thương cho người Sĩ Quan Nhảy Dù chỉ huy đơn vị trấn đóng ở sân Hoa Lư tự sát sau khi cho binh sĩ giải tán sáng 30-4; thương cho những thương binh Việt Nam Cộng Hòa bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa một ngày sau khi Việt Cộng chiếm Saigon, trên vết thương của họ vẫn còn nhuốm máu; thương cho những người chiến sĩ đã chết mà mộ của họ đang bị đào xới trả thù.
Ấp Ba Xã Thạnh Mỹ Tây tổ chức học tập chính sách - các gia trưởng đều được mời đi dự phiên họp. Bài học đầu tiên của chính quyền mới nên mọi người đều muốn nghe, muốn biết những gì thuộc chính sách để đối phó lại, và coi bản thân mình sẽ được đối xử ra sao. Ngồi bàn chủ tọa có Út Ba, người cán bộ miền Nam từ mặt trận về; chị Tư Nở tổ trưởng phụ nữ, cán bộ nằm vùng, trước buôn bán bánh da lợn trong Chợ Thị Nghè - Hai Nên thư ký ấp, trước làm công cho Thiếu tá Bê, Ủy Viên An Ninh; anh Năm Cần đạp xích lô, cán bộ nằm vùng. Trước mặt đông đảo bà con mặt tên nào cũng vênh váo ta đây là kẻ chiến thắng, chỉ riêng Hai Nên, khi được giới thiệu vẫn còn bẽn lẽn. Người được Út Ba giới thiệu tên là Thành, Thượng úy, cán bộ từ Quận Thạnh Mỹ Tây xuống. Đề tài học tập là: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù của dân tộc”. Bằng một giọng Bắc ngọng lẫn lộn chữ L và chữ N, chữ D và R, hắn đọc tương đối lưu loát bài thuyết trình nội dung đại ý “lược trình về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam anh hùng từ đời Hùng Vương đến hiện tại, thời đại Hồ Chí Minh là thời đại anh hùng nhất, vì Bác Hồ và Đảng Lao Động lãnh đạo toàn dân đánh thắng liên tiếp ba đế quốc: Pháp, Nhật và Mỹ, trong đó đế quốc Mỹ là tên đầu sỏ mạnh nhất, tên hung nô của thời đại ...”.

Người ta bắt đầu làm quen với những từ ngữ “thời đại Hồ Chí Minh anh hùng”, “đỉnh cao trí tuệ loài người”, “cái nôi văn minh của nhân loại”. Bài thuyết trình còn nhấn mạnh “là hiện nay thế giới có ba cường quốc, Liên Sô là cường quốc quân sự, đế quốc Mỹ là cường quốc kinh tế, và Việt Nam là cường quốc chính trị”, vì Việt Nam là nước đất không rộng người không đông, đã đánh thắng đế quốc Mỹ làm gương cho các nước khác trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập ... Tất cả những vinh quang hiển hách đó là nhờ sự lãnh đạo của Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Nói tới đây, Thượng úy Thanh tỏ ra xúc động, anh xin lỗi cử tọa rút khăn ra và bắt đầu sụt sịt khóc. Anh nói, anh cũng như mọi người dân miền Bắc, ai cũng kính yêu Bác Hồ, dù Bác mất đã lâu, khi nhắc đến anh vẫn xúc động - anh ân hận là khi Bác mất, anh bận công tác ở chiến trường B không về Hà Nội được để dự đám táng Bác. Thấy Thượng úy Thanh khóc, những tên khác trên bàn chủ tọa cũng lấy khăn lên thấm nước mắt.

Cuối bài thuyết trình nói về tay sai đế quốc Mỹ gồm “bọn tư sản mại bản”, “phong kiến bóc lột”, “quan liêu quân phiệt” cần được cải tạo trong diễn trình cách mạng gồm hai giai đoạn: Cuộc Cách Mạng Dân Chủ Nhân Dân và Cách Mạng Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ...

Mọi người về trong im lặng, dường như ai nấy càng ưu tư hơn với số phận mình. Bắt đầu nghe từ ngữ “cải tạo”. Cải tạo có phải là tẩy não không? Tư sản mại bản là những ai? Là những người có tài sản tiền của, nhưng đến độ nào thì được ghép vào tư sản mại bản? Thuyết trình viên không giải thích rõ, người nghe dù không hiểu cũng không hỏi, vì sợ - không khí sợ hãi càng ngày càng đè nặng trên tâm lý mọi người - quân nhân công chức Việt Nam Cộng Hòa thì thấy rõ hơn, nhóm từ ngữ “quan liêu quân phiệt” bao gồm toàn thể trong đó.

Hy vọng mỏng manh của một số người về một hình thức chính quyền Cộng Sản ôn hòa như các nước Đông Âu hay Nam Tư tan tành. Kiến thức lờ mờ về chế độ Cộng Sản, khiến nhiều người chỉ phân biệt một cách đơn giản là Cộng Sản Trung Quốc sắt máu, Cộng Sản Liên Sô thì tương đối ôn hòa, Cộng Sản Đông Âu thì đỡ hơn hết. Năm 1974, nhiều báo Mỹ nói về Cộng Sản Nam Tư, và tiếc rẻ là Tổng Thống Truman bỏ cơ hội biến Hồ Chí Minh thành một Tito ở Á Châu khi từ khước hai thư xin viện trợ của ông Hồ. Những sự hiểu biết không đầy đủ như vậy khiến sự sai lầm càng trầm trọng hơn. Người ta không phân biệt được là chính sách Cộng Sản Quốc Gia của Nam Tư là chính sách đối ngoại, một may mắn của lịch sử Nam Tư khiến Staline không thể đem quân chiếm Nam Tư như các nước Đông Âu khác, nên Tito đã độc lập được với Mạc Tư Khoa. Vấn đề nội chính Tito cũng áp dụng đấu tranh giai cấp và giết người hàng loạt trong những tấm mồ tập thể.

Tâm lý đứng núi này trông núi nọ, tình hình chính trị tồi tệ của miền Nam, sự kém hiểu biết về Cộng Sản làm nhiều người không còn sợ Cộng Sản. Có người nghĩ là miễn có hòa bình để chấm dứt các đau khổ chiến tranh gây ra, còn nếu một chính quyền Cộng Sản thế nào đó giống như Cộng Sản Đông Âu người ta có thể chịu được với sự hy sinh ít nhiều về đời sống vật chất, chịu đựng kham khổ lúc ban đầu. Hình thức tuyên truyền về người Cộng Sản răng đen, mắt ốc nhồi, cầm mã tấu vấy máu trẻ em trở thành nhàm chán, hình ảnh tuyên truyền quá đáng về 7 người lính Cộng Sản đu cành đu đủ không gẫy trở thành phản tác dụng. Do đó, hình ảnh “Saigon tắm máu” nỗ lực cuối cùng chống Cộng Sản trên mặt trận tuyên truyền không đạt nhiều kết quả, trong khi đó đài BBC, và tin của người dân chạy đường bộ vào đến Saigon thì Việt Cộng tiếp thu các tỉnh miền Trung một cách ôn hòa.
Saigon bắt đầu xôn xao vì tin tức chính sách giãn dân để rút dân số Saigon còn 500.000 và chính sách cải tạo.

Những gia đình nghèo trong các khu đông đúc, những ngày đầu nhận “gạo cứu đói” được nằm trong danh sách giãn dân đầu tiên. Thành phần dân nghèo thành thị thức tỉnh ngay với quyết định đó. Bao nhiêu năm sống lam lũ trong xóm nghèo lao động, chịu sự bất công của xã hội - sự cách biệt về lối sống, ít nhiều họ vẫn mơ ước cuộc cách mạng làm đổi đời, cuộc cách mạng công bằng xã hội, những ngày đầu họ “hồ hởi, phấn khởi” thấy chính quyền cách mạng chiếu cố bằng sự cấp phát mấy lon gạo cứu đói. Giờ đây mấy lon gạo cứu đói là lý do buộc họ phải ra khỏi thành phố về quê sản xuất theo chính sách. Họ có cảm tưởng bị đánh lừa. Họ đâu có thể phân bì với chị Tư Nở bán bánh da lợn, cô Hai Nên trông con cho gia đình Thiếu tá Bê, anh Năm Cần đạp xích lô, những người này được vào ban lãnh đạo ấp, được chiếm những ngôi nhà lầu khang trang của những người di tản. Trong ngày đầu tiên giới thiệu trụ sở ấp, những người đó đều tự giới thiệu thành tích rải truyền đơn, ném lựu đạn, nuôi cán bộ, giao liên trong trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân. Người dân nghèo mới vỡ lẽ, cách mạng đem lại vinh quang và công bình cho người nghèo trong tổ chức của họ - còn dân nghèo muôn đời vẫn là người chịu đựng trước tiên những đau khổ - áp bức, theo chính sách phải đi ra khỏi thành phố trước cả mấy ông “ngụy quân”, “ngụy quyền”.

Thời gian trăng mật qua nhanh, người Saigon mau chóng nhìn ra những sự thật. Từ thái độ khâm phục kháng chiến trước 75, đến sợ sệt rõ ràng trong những ngày đầu tiếp xúc đến quen thuộc và khinh thường. Người ta khinh thường vì sự ngây ngô, dốt nát của cán binh Cộng Sản, trong dân chúng người ta truyền nhau rất mau các câu chuyện cười có thật về những người chiến thắng này. Chuyện cán bộ mua cá lóc về bỏ bồn cầu tiêu nuôi, khi bấm nút cá biến mất; chuyện thấy quạt trần tưởng máy chém; bình ga nấu bếp gọi là bom Mỹ; chuyện cán bộ mua nịt vú về làm lọc cà phê; lấy băng vệ sinh phụ nữ làm khẩu trang chạy Honda; cán bộ vào quán đòi uống sữa Honda; người ta ùn ùn chạy đi xem bảng hiệu “xưởng đẻ lớn” được thay cho bảng “Bệnh Viện Sản Khoa Từ Dũ”. Sợ người ta đi xem đông quá nên chính quyền cách mạng phải thay bằng một tên khác là “Viện Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em”. Người ta bắt đầu đánh giá chính quyền cách mạng qua công tác xóa nạn mù chữ tẻ nhạt, vì công việc này kết thúc tại miền Nam từ năm 1955, 1956; Hội Phụ Nữ hội thảo về đề tài Nam Nữ Bình Quyền, kích động phụ nữ đấu tranh với mẹ chồng không kết quả, nhiều phụ nữ phát biểu là họ hoàn toàn độc lập với mẹ chồng và nhiều khi thấy ngượng khi lấn lướt chồng.

Hình ảnh những cao ốc công sở treo đầy quần áo đàn bà, chủ tịch huyện vừa ôm con vừa giải quyết hồ sơ với hai chân ngồi chồm hổm trên ghế, những bãi cỏ trong cơ sở hay tư gia bị đào lên để trồng khoai mì... Tất cả những hình ảnh và việc làm trên khiến cho người Saigon thấy được là họ đã bỏ xa những người chiến thắng đến 50 năm. Miền Nam bỏ xa miền Bắc 50 năm, vì trong 21 năm chia cách, miền Nam tiến mà miền Bắc thì lùi. Người miền Nam sống trong một xã hội tiến bộ mà ít người thấy. Người ta chỉ nhìn thấy những khía cạnh tiêu cực của miền Nam, còn phần tiến bộ không chú ý đến, bỏ qua hoặc không có đối tượng để so sánh. Người bên ngoài mới đến miền Nam thì thấy rõ. Phạm Văn Đồng lần đầu tiên đến Saigon, ngồi xe quan sát một hồi, y bảo xe ngừng lại ngay giữa đường Tự Do, bước xuống xe để nhìn quanh một lúc như tận hưởng tất cả sung sướng của kẻ chiến thắng, y thốt lên: “Hiện đại quá, hiện đại quá!”. Lê Duẩn nói với những người thân tín: “Với tài sản đế quốc Mỹ bỏ lại miền Nam, không bao lâu đất nước ta sẽ tiến bộ”.

(còn tiếp)


27/6/12

Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Phần mở đầu



Phần Mở Đầu

Quyết định không ra đi trước ngày 30-4-75 là một quyết định sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Tôi phải trả một cái giá đắt gồm 16 tháng trốn lánh trong lo âu hồi hộp, 12 năm đầy đọa từ nhà tù này đến nhà tù khác, một lần vượt biển và một năm rưỡi ở trại tỵ nạn.

Tôi mất hơn 15 năm, cuối cùng tôi cũng phải tìm đến Mỹ, điều tôi có thể làm được trước khi miền Nam bị Cộng sản xâm chiếm. Vừa đến nơi một người bạn đã cảnh giác tôi - Đừng xem nước Mỹ là một thiên đường - Tôi không hề xem nước Mỹ là một thiên đường - chỉ có ở nước Cộng sản mới có thiên đường vì ở đó có nhiều tầng địa ngục. Tôi đã ở tận cùng các địa ngục đi ra. Tôi không đi tìm một thiên đường, nhưng tôi đã biết là phải chọn giữa một hoàn cảnh cực kỳ xấu và một hoàn cảnh ít xấu hơn, chỉ giản dị thế thôi.

Thực tại cuộc sống đã trả lời điểm tranh luận của các nhà triết học là: vật chất hay tinh thần. - Vật chất là yếu tố cần thiết để tạo ra cuộc sống, nhưng khi vật chất đầy đủ một cách tương đối thì con người cần nhu cầu cao hơn, là sự thỏa mãn tinh thần. Có thể đó là sự khác nhau giữa con người và con vật. Karl Marx đã đem cả đời để đọc để viết, kiến thức của ông bao gồm cả kho tàng triết học Đức, kinh tế học Ăng Lê và xã hội học Pháp, ông đã dùng duy vật biện chứng để truyền bá duy vật sử quan. Những khám phá về thặng dư giá trị một thời tưởng như là kinh điển, tất cả đều là những lầm lẫn của bộ óc được xem là phi thường. Khi con người dùng cái trí, dù cái trí được rèn luyện, được xem là lỗi lạc vẫn bị giới hạn, và khi sự phán đoán dựa trên lý trí nếu càng sai lầm càng tai hại, chỉ có cái tâm là không giới hạn. Có thể đó là sự khác biệt giữa các tôn giáo và Cộng sản chủ nghĩa. Các tôn giáo dùng tình thương để truyền bá giáo điều. Karl Marx và Lenine muốn lập nên một tôn giáo nhưng tôn giáo dùng hận thù làm động lực chính.

Trong một hướng khác của cuộc sống, ở các trại tù Cộng sản (gọi là trại lao động cải tạo), người tù cũng chứng minh được giá trị tinh thần vượt trên giá trị về vật chất bằng chính bản thân họ, không ai tưởng tượng được có những người tù đã sống được đến hơn ba năm trong xà lim tối với một chén cơm nhỏ, chén khoai mì và nước muối mỗi ngày. Sống hay chết của những người tù trong xà lim Kiên Giam trại Xuân Phước (A-20) chỉ giải thích được là ai còn niềm tin vào giá trị tinh thần nào đó mới có thể kéo dài sự sống, ai mất niềm tin thì chết. Niềm tin đó có thể từ tôn giáo, từ một ý thức chính trị là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ và dân tộc Việt Nam sẽ được phục hưng hay niềm tin vào sự yêu thương giữa con người và con người. Đó là những bài học đơn giản, thực nghiệm bằng máu và nước mắt để đả phá cái lý luận cốt lõi của triết học Cộng sản, triết học duy vật.

Nay, lý thuyết Cộng sản đã bị vứt vào sọt rác của lịch sử và chế độ Cộng sản đã sụp đổ. Hệ thống Cộng Sản quốc tế rã ra từng mảnh và lần lần bị xóa bỏ. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu dễ dàng và nhanh chóng đến nỗi làm cho người ta phải sửng sốt bàng hoàng, những nhà lãnh đạo các cường quốc nhiều khi còn không dấu được sự lúng túng trong việc thay đổi chính sách ngoại giao. Thật đơn giản, chế độ Cộng sản không bị đánh sụp bằng những đạo quân hùng mạnh, với những vũ khí tối tân từ bên ngoài, mà bị đánh sụp bằng những cuộc biểu tình của dân chúng tại nước họ trong đó có cả những người từng là đảng viên Cộng sản. Chế độ Cộng sản chỉ còn là ngắc ngoải tại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam, cái đau đớn của người Việt Nam và trớ trêu của lịch sử dân tộc Việt Nam là chiến trường ác liệt nhất của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Người quốc gia dù chỉ được lãnh đạo một cách lờ mờ, vẫn kéo dài cuộc chiến đấu nghiêng ngửa gần 30 năm, để rồi sau khi người chiến sĩ chống Cộng Việt Nam, chiến trường chống Cộng cuối cùng sụp đổ thì kẻ thù chung của nhân loại cũng từ từ bị hủy diệt trong tan rã.

Ngày 30-4-1975 Saigon sụp đổ, tôi nghĩ giải pháp đẹp nhất cho người chiến sĩ tự trọng là tự xử không đầu hàng giặc; tôi hèn, không đủ can đảm để làm một chiến sĩ tự trọng, nên tôi phải kéo lê tấm thân càng ngày càng tàn tạ từ nhà tù này đến nhà tù khác, mỗi ngày phải nuốt nhục cúi đầu. Giải pháp hào hùng nhất cho người chiến sĩ kiên cường sau một lần thất bại là tạm lui, ẩn nhẫn chờ thời, trui rèn tài đức để phục hận, tiêu diệt quân thù đem vinh quang về cho tổ quốc. Tôi không đủ bản lãnh để làm một chiến sĩ kiên cường nên khi ra khỏi nhà tù tôi vội vã bỏ nước ra đi. Lần ra đi không phải để chạy trốn, không phải để tìm cho mình một điều kiện vật chất mà mình thiếu. Mười hai năm tù, thiếu thốn những vật chất tối thiểu, có những lúc thèm ăn một cục muối, một cục đường, một hơi béo. Thèm, từ ngữ diễn tả cảm giác rất sơ đẳng gần như hạ tiện của con người; Tôi đã từng thèm rất nhiều thứ; nhưng rồi cũng quen, đúng quen, sự thỏa hiệp kỳ diệu với hoàn cảnh, để cho con người tù sống, và giải thích được lý do tại sao người tù trong chế độ Cộng Sản có thể sống được trong những điều kiện mà khi kể lại người bình thường rất khó tin, cứ tưởng là người tù khoa trương sự thật.

Thời gian ở tù tôi sống chung với hàng ngàn, hàng ngàn chiến sĩ bất khuất của hàng trăm tổ chức chính trị và vũ trang chống lại chính quyền Cộng sản sau tháng 4-1975. Nhiều lúc phải hổ thẹn trước tư cách của một đứa em nhỏ hay sự bình thản khi nhận lãnh án tù từ 20 năm hay chung thân của một người trước kia là nông dân, là công nhân hay là một binh sĩ, những người không từng được hưởng một ân huệ nào của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nếu không nói là chính họ là nạn nhân của những bất công trong chế độ đó. Chính là nhờ sự hổ thẹn đó, tự thấy mình có lỗi, cũng từ đó tôi tạo được niềm tin, tin vào tương lai của dân tộc, một dân tộc Việt Nam kỳ diệu, không ai hiểu nổi tại sao tồn tại được. Ngoại nhân không ai hiểu được dân tộc Việt Nam tại sao tồn tại khi chỉ tìm hiểu hoặc tiếp xúc một thành phần xã hội nào đó, nhất là thành phần trí thức và thành phần nắm quyền. Họ không hiểu được sức sống của dân tộc Việt Nam là sức mạnh tiềm tàng trong quảng đại dân chúng. Sức mạnh tiềm tàng đó trong điều kiện lịch sử được kết hợp lại thành một lực lượng có lãnh đạo tốt thì sẽ đánh đuổi được ngoại xâm và xây dựng đất nước phú cường; ngược lại, khi chưa có điều kiện tập hợp thì nó tiềm phục làm sức sống cho dân tộc tồn tại ươm chồi chờ điều kiện trỗi dậy thành rừng gỗ quí. Tôi vội vã ra đi vì tôi nghĩ là trong nước chưa có điều kiện tập hợp. Tôi nghĩ đến những người ra đi trước, làm gì không có chiến sĩ kiên cường khi thất bại tạm lui ẩn nhẫn chờ thời và, sức mạnh của lòng yêu nước thiết tha của con người Việt Nam trong những người Việt Nam hải ngoại. Tôi nghĩ là thời gian gần mười lăm năm, điều kiện vật chất và gia đình được đầy đủ, tương lai con cái được bảo đảm xán lạn, mỗi người Việt Nam lưu vong hải ngoại đều xác định được rõ thế nào là tình yêu nước, và ai cũng mơ ước một ngày về xây dựng quê hương để tự chứng tỏ mình là một chiến sĩ kiên cường, không phải là kẻ trốn chạy, không tổ quốc.
Bây giờ 1990, viết về nhà tù Cộng sản hay tranh luận lý thuyết Cộng sản quá chậm. Tôi chỉ mong ghi lại đây như là một chứng tích của một đời đã qua. Bằng lời lẽ thô thiển mộc mạc, ghi lại để nhớ ơn cha mẹ, vợ, chị, các em và những người thân đã giúp cho tôi có thể sống được và làm kỷ niệm đối với bạn bè đã cùng sống với nhau những ngày gian khổ.

Nguyễn Chí Thiệp 

*Mời đọcbài trước:

Tựa

 



Trại Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiệp: Tựa



 Tựa

Vài cảm nghĩ và nhận xét về cuốn Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp

Duy Lam
- Tự Lực Văn Đoàn
- Hội viên danh dự INT-PEN
- Giải Thưởng Tự Do Phát Biểu 1992 Hellman - Hammett.

Qua những giai đoạn biến động của lịch sử một quốc gia, thường là những cuộc chiến tranh, những người trong cuộc có thể là những nhà văn, người trí thức, nhà báo, hoặc nhiều khi chỉ là những nạn nhân của thời cuộc và những cuộc tranh chấp, đôi khi chỉ là những người dân bình thường, đã cảm thấy bị thôi thúc bởi ý muốn cầm bút viết lại những kinh nghiệm sống họ đã trải qua.

Sau cuộc Đệ I và Đệ II Thế chiến và cuộc chiến tranh Việt Nam, thể hồi ký đã có những giai đoạn nở rộ. Những chứng liệu này do chính nhân chứng thuật lại đã trở thành những tài liệu rất quý và giá trị cho những nhà xã hội học, những nhà tư tưởng, nhà văn dùng làm tài liệu tham khảo, để phân tích tổng hợp chiếu rọi những ánh sáng mới vào những chiều hướng đã được bộc lộ hoặc ngấm ngầm của lịch sử hầu tương lai tránh được những lỗi lầm của dĩ vãng; hay dựng lên những tác phẩm lớn có chiều sâu nhờ những khoảng cách thời gian thích hợp nên cái nhìn bao quát trở nên chính xác với thực tại hơn.

22/1/12

Về Ðà Nẵng Lần Cuối...



A20 Nguyễn Chí Thiệp

Sau hiệp định Paris 26 tháng 1, 1973, Hoa Kỳ hạn chế viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà. Sự sụp đỗ của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Tôi thường cọng tác ở các quân khu và các tỉnh nên thấy rõ điều này. Các cấp chỉ huy quân sự cao cấp thấy mình bị bó tay trong khi quân chính quy của Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập ào ạt qua đường Trường Sơn. Nhưng không ngờ được sự sụp đổ của miền Nam quá nhanh sau khi thất thủ Ban Mê Thuột và quyết định rút quân đoàn 2 ra khỏi Pleiku.

22/1/11

Quảng Nam - Đà Nẵng tuy gần mà xa



Nguyễn Chí Thiệp


  Nằm trên quốc lộ, làng Thanh Quít cách Hội An 14 km và Đà Nẵng 16 Km tính theo đường cũ qua Liên Trì - Cẩm Lệ, hoặc 22 km tính theo quốc lộ mới qua Ngã Ba Huế - Cầu Đỏ.

Dân Thanh Quít sống bằng nghề dệt và trồng thuốc lá. . . Chợ Vải, trước chiến tranh là trung tâm buôn bán vải, sợi, tơ, bông của vùng bắc Phủ Điện Bàn. Chợ vải có nhà lồng chợ lợp ngói, hai dãy phố, có phố lầu, có cửa hàng tạp hóa, tiệm thuốc bắc của người Trung Hoa. Trồng và buôn thuốc lá là nghề thứ hai. Thuốc lá trồng nơi đây là loại thuốc nổi tiếng cả tỉnh, gọi là thuốc Cẩm-Lệ. Vào mùa Tết âm lịch, cánh đồng thuốc bạt ngàn, bao gồm các làng Thanh Quít, An Tự, Thanh Tú, Hà Thanh, Bích Trâm, Lục Giáp, Viêm Tây, Ngân Căn, Tứ Câu... Rộng hơn cánh đồng thuốc lá Cẩm Lệ nhiều lần. Thị trường tiêu thụ loại thuốc này là Huế, Thừa Thiên và Quảng Trị. Những nhà buôn sĩ người Cẩm Lệ đã thu mua và vượt đèo Hải Vân đưa thuốc lá ra bán cho các nhà chế biến thuốc xắt thành sợi tại Huế, và tên thuốc lá Cẩm Lệ phát xuất từ đây. Sau nầy, nhiều người Thanh Quít chế biến thuốc và trực tiếp bán về Huế, mở rộng thị trường vào Qui Nhơn, Nha Trang, Đà lạt, nhưng cũng không lấy lại tên thuốc cho làng Thanh Quít, mà vẫn phải gọi tên là thuốc Cẩm Lệ như là một danh từ chung. Tên gọi đã thành quen trên thị trường thuốc lá, biết sao?

Những người tù bất khuất


A20 Nguyễn Chí Thiệp

Thời gian ở tù, tôi cũng có nhiều dịp để khâm phục những người tù bất khuất, tôi đã có dịp nêu tên tuổi ở những phần đầu khi tôi gặp họ ở trại tạm giam. Ở phân trại C này, tôi tiếp tục khâm phục một người khác. Linh mục Phan Thanh Luân; cha Luân sinh quán Phan Rang, cha còn trẻ, khoảng 37 tuổi, bị kết án chung thân vì tổ chức phong trào chống Cộng ở địa phương, vào trong tù cha vẫn tiếp tục chống đối, bao nhiêu lần viết kiểm điểm, cha đều viết vỏn vẹn có mấy chữ “Chế độ Cộng sản độc tài tàn bạo, nặng trừng phạt trả thù, không có khoan hồng”, cha Luân đã bị nhốt xà lim nhiều lần, các cha khác khuyên cha nên nhẫn nhục hơn, nhưng cha đã dứt khoát trả lời cha muốn làm một viên gạch lót đường cho người yêu nước bước lên đi tới. Trong đợt kiểm điểm cuối năm 1982, cha Luân lại chỉ viết như cũ. Cha Luân bị nhốt từ tháng 12-1982 đến khi tôi rời Xuân Phước tháng 10 năm 1986, nhiều người khác đã chết nhưng cha vẫn còn sống, cha đã yếu lắm, lần cuối cùng khoảng giữa tháng năm 1986, an ninh gọi cha ra để viết kiểm điểm. Cha Luân trả lời cha không biết viết. Cha Luân đã quyết chết. Ý nguyện của cha là làm viên gạch lót đường, nhưng không biết có người nào bước lên viên gạch tên Luân để đi được bước vững chắc trong sứ mạng chống Cộng hay không?

21/1/11

Nguyễn Chí Thiệp: Việt-Nam Khát Vọng Dân Chủ Tự Do




*Sách “Việt-Nam Khát Vọng Dân Chủ Tự Do”
 do tác giả xuất bản tháng 2, 2001
dầy 871 trang, khổ 5 3/8 x 8 1/4 inches, bìa mỏng.

Những nhân vật ....


A20 Nguyễn Chí Thiệp

Xuân Phước - Tháng 9/1979

 ..........
1.
Chỉ có một ngày di chuyển, buổi tối chúng tôi đến trại Xuân Phước. Đó là một trại ở vùng nước độc chuyên giam giữ tù hình sự. Ở tù chung với tù hình sự là một điều không may mắn, một thành phần quá ô hợp và phức tạp, đa số chỉ sống theo bản năng, mặt khác cán bộ coi tù hình sự quen thói đối xử tàn bạo hơn là đối với tù chính trị.

Chúng tôi được chào đón tận tình ở trại, chỉ có 30 người tù được hơn một chục cán bộ xét kiểm đồ vật trước khi nhập trại, thuốc men, thức ăn đều bị tịch thu. Cán bộ giải thích, ở trại tổ chức ăn uống tập thể, không phân chia vì phân chia thức ăn là vết tích của tư sản, nặng đầu óc tư hữu và trại sẽ lo cho “đầy đủ”. Vấn đề gia đình thăm gặp, thời gian đầu tạm ngưng, trại sẽ cứu xét tùy thái độ chấp hành cải tạo.

20/1/11

Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp.




Nguyễn Chí Thiệp



Thiên hồi ký Trại Kiên Giam đưa chúng ta trở về với những trang sử đau thương của dân tộc, mở đầu bằng ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ngày mà hàng triệu người phải rời xa đất Mẹ, ngày mở đầu cho một địa ngục cho hàng trăm ngàn chiến sĩ Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa bất khuất. Thiên hồi ký Trại Kiên Giam trình bày tất cả những bi thảm của một trong những trại tù kiên cố của cộng sản được gọi là "cải tạo", và những khổ đau bất hạnh trong một xã hội có nhiều từng địa ngục, được gọi là "thiên đường".

Nguyễn Chí Thiệp sinh năm 1944 tại Quảng Nam, học các trường Phan Chu Trinh Ðà Nẵng và Chu Văn An Sài Gòn. Tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh 1965 - 1969, trường Bộ Binh Thủ Ðức 1966, Chính Trị Kinh Doanh Ðà Lạt 1970.

Năm 1975 không trình diện học tập, bị bắt tháng 9 năm 1976 trong khi chuẩn bị vượt biên. Bị giam tại các trại giam Sở Công An Thành Phố, Phan Ðăng Lưu và Chí Hòa. Cải tạo lao động tại các trại Z-30A Long Khánh, A-20 Xuân Phước Phú Yên. Ðược thả tháng 2 năm 1988. Vượt biên đến đảo Pulau Bidong, Mã Lai, tháng 5 năm 1988. Cư trú tại Hoa Kỳ từ tháng 10 năm 1989.

Thiên hồi ký Trại Kiên Giam đã được phổ biến trên đài phát thanh Quê Hương, San Jose, California, trong chương trình đọc truyện do Trần Nam phụ trách. Chúng tôi xin chân thành cám ơn tác giả và trân trọng giới thiệu đến quý độc giả và thính giả khắp nơi thiên hồi ký Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp
.






Trại Kiên Giam
 của Nguyễn Chí Thiệp
 do Trần Nam diễn đọc
Huy Phong thực hiện kỹ thuật

Quý vị có thể tải xuống máy để nghe:



  1    2    3    4    5    6    7    8    9  10
11  12  13  14  15  16  17  18  19  20
21  22  23  24  25  26  27  28  29  30
61  62  63  64  65  66  67  68  69  70
71  72  73  74
 
(
Nguồn: http://freevietnews.com)



****************  





Trại Kiên Giam
Của Nguyễn Chí Thiệp

(Nghe tape cassette do Đài phát thanh tại San José thực hiện)


Phạm Đào Nguyên

Một hôm tình cờ tôi nghe được 14 đoạn ngắn (2 tapes) trong tập hồi ký Trại Kiên Giam của Nguyễn chí Thiệp trên net, do anh Trần văn Long gởi email vào các diễn đàn. Tôi gọi điện thoại hỏi các nhà sách tại CA, nhưng không ai có, hoặc không bán, sau cùng tôi tìm được địa chỉ của anh Thiệp. Vì nghe giới thiệu anh là người Quảng nam, tò mò cũng có, và cũng vì nghe 14 đoạn hay quá, nên tôi cố tìm cho được địa chỉ của anh, để hỏi anh nơi bán.

Anh nói, khi viết xong anh đưa quyển hồi ký này cho một số thân hữu, họ đã phát hành tại California năm 1992, chỉ một số lượng nho nhỏ, cho anh em đọc mà thôi.  Một đài phát thanh tại San José đọc truyện và cho vào tape cassett; họ có tặng cho anh mấy bộ, anh còn một bộ và có quyển sách Việt Nam Khát Vọng Dân Chủ Tự  Do để anh gởi tặng tôi. Tôi có hỏi giá cả nhưng anh nói, có tiền cũng được không cũng không sao, nhưng tôi xin gởi anh 50 đô, chút tiền cước phí. 

Đó là chút hạnh ngộ giữa tôi và anh, một người đồng hương sinh ra và lớn lên ở Quảng Nam. Sáu năm đầu đời làm việc, anh về lại Quảng Nam nhận chức từ Phó quận trưởng đến Phó tỉnh trưởng, và khi anh rời QN về bộ Nội vụ, thì tôi mới ra trường trở về Quảng Nam, nên tôi chưa hề biết tên anh. Tôi không có đủ khả năng để viết lời giới thiệu, phê bình hay điểm sách, nhưng với tấm lòng của một người yêu sách, yêu tổ quốc Việt Nam, tôi xin mời qúy vị hãy cùng nghe với chúng tôi Thiên hồi ký Trại Kiên Giam qua giọng đọc của anh Trần Nam, để chia xẻ niềm đau chung của Dân tộc, của Tổ quốc Việt Nam thân yêu sau 24 năm chiến tranh, và 30 năm dài bị đảng Cộng sản độc tài cai trị.

Một quyển hồi ký đặt sắc nhất, hay quá hay qua giọng đọc truyền cảm, làm xúc động lòng người, của xướng ngôn viên Trần Nam, đài VOA.  Giọng đọc của anh Trần Nam đã thu hút, hấp dẫn người nghe một cách đặc biệt, đưa giá trị của quyển sách vào hàng độc đáo nhất, mà tôi chưa một lần từng nghe thấy. Không ai có thể nghe bộ tape này một lần rồi thôi, mà người nghe muốn nghe đi nghe lại hàng trăm lần không biết chán.

“Thiên Hồi ký Traị Kiên Giam, của Nguyễn chí Thiệp do Trần Nam diễn đọc, và Huy Phong thực hiện kỹ thuật. Thiên Hồi ký Trại Kiên Giam đưa chúng ta trở về với những trang sử đau thương cuả dân tộc, mở đầu bằng ngày 30-4 -1975, ngày mà hàng triệu người phải rời xa Đất Mẹ, ngày mở đầu một địa ngục cho hàng trăm ngàn chiến sĩ Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà bất khuất. Thiên Hồi Ký Trại Kiên Giam trình bày tất cả những bi thảm của một trại tù kiên cố nhất, đươc gọi là cải tạo, và một xã hội có nhiều tầng điạ ngục, được gọi là thiên đường. (Trích lời Trần Nam)

Thiên hồi ký Trại Kiên Giam của anh Nguyễn chí Thiệp, gồm 20 chương, được anh Trần Nam diễn đọc vào 12 cuốn tapes, mỗi cuốn dài 60 phút, đã kể lại từ những ngày đầu tiên của 30 tháng 4 năm 1975 ở Sàigòn. Những chuyện rất thật, mà anh là nhân chứng, những việc đã xãy ra tại Sàigòn từ lúc SG mất …đến những ngày anh trốn tập trung, lang thang khắp nơi tìm các tổ chức tàn quân, và rồi bị bắt vào những trại giam, như Phan đăng Lưu, Chí Hoà rồi đến Long Khánh, A20, A30…v…v…Trong 12 năm tù, qua nhiều trại giam, anh đã gặp nhiều từng hạng người, và hàng ngàn những chiến sĩ bất khuất tại đây.

Anh Nguyễn chí Thiệp sinh ra tại Thanh Quýt, Quảng Nam, đã học Phan chu Trinh Đà Nẵng, Chu văn An Sàigòn. Tốt nghiệp Viện Quốc Gia Hành Chánh, Chính Trị Kinh Doanh, và trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh viết chuyện rất thật, rất sống động. Anh viết bằng cả con tim, khối óc, và đã gởi gắm tình yêu quê hương đất nước của anh vào Trại Kiên Giam. Văn anh viết không trau chuốt, mộc mạc, đơn giản dể đọc dể hiểu, anh đã vẽ ra một bức tranh quê hương rất thật, rất đau, bằng ngòi bút tài tình của mình. Đời sống của người dân Việt sau ngày tang tóc nhất của đất nước, ngày 30-4-1975,  ngày lịch sử đau thương của Tổ quốc Việt nam thân yêu.

Anh Nguyễn chí Thiệp là người từng làm việc từ địa phương đến trung ương, anh biết được phần nào những thâm cung bí sử qua các triều đại, về những người liên quan đến giòng họ Nguyễn văn Thiệu, của tướng Đặng văn Quang (trang 147), của Trang sĩ Tấn. Trang sĩ Tấn từ một nhà giáo, đến Thẩm phán rồi Cảnh sát, ông đã vơ vét tài sản của Nam Việt Nam ra sao?  Ông tướng Nguyễn vĩnh Nghi làm gì cho tổ quốc, cho đồng bào VN, trong khi đất nước trong tình trạng lâm nguy?  Một ông tướng có đủ kiến thức, khả năng để đánh giá về tình hình đất nước mình đang tình trạng chiến tranh đến hồi suy vong?

Tôi chỉ đơn cử một vài bộ mặt thật của hai chính thể, hai chế độ ở hai miền Nam Bắc. Với hàng trăm những bản mặt vô liêm sỉ, và ngược lại có hàng ngàn những người lính, những nông dân, những thanh thiếu niên bất khuất trong các trại tù. Hai bộ mặt tương phản mà tác giả đã thấy, đã chứng kiến rất thật trong xã hội Cộng sản và Quốc gia. Tổng trưởng quốc phòng Nguyễn văn Vỹ thế nào? Ông là ai? Phát biểu thế nào về chiến sĩ QLVNCH? Tiếp đến những bộ mặt thật của bọn cộng sản nằm vùng, được tỏ rõ sau năm 1975, những dả man, láo khoét, lừa bịp, thiếu kiến thức, thiếu đạo đức, tàn ác hay ngu đần của bọn lãnh đạo Cộng sản sau 1975.

Những người trí thức miền Nam tiếp tay cho Cộng sản nghĩ gì, làm gì khi Cộng sản xuất hiện? Những người tù bất khuất ấy còn rất trẻ, có người là binh nhì, là nông dân, là những thanh thiếu niên tuổi còn măng sửa; họ đã ung dung chấp nhận những cái án tù từ 20, 30 năm, hay chung thân, mà trước kia họ chưa một lần hưởng ơn mưa móc của chính quyền miền Nam…. Họ kiên cường, bất khuất đầy gan dạ, qua ngòi bút đơn sơ của anh, nhưng làm nhiều người như tôi thót cả ruột gan, thương cho một Việt Nam điêu tàn… thương cho những tấm gương ái quốc, đầy khí tiết dù tuổi đáng độ con cháu chúng ta….

Riêng từ trang 164-172, (hay nghe trong clip số 6 của DVD)  anh Nguyễn chí Thiệp nhận xét rất rõ, rất đúng về các chính đảng chánh trị tại miền Nam, nhất là ở địa phương của anh, Quảng Nam. Những nhận xét có giá trị, đúng từ hoàn cảnh, thực lực, mà tôi mong rằng dù đây là nhận xét của riêng cá nhân anh Thiệp, nhưng rất đúng với những con người của những chính đảng Đại Việt và Quốc Dân Đảng tại Quảng Nam. Họ phải ghi nhận, học hỏi, và cải thiện guồng máy tổ chức, hầu mới mong phát triển dù trong nước hay ngoài nước.

Trại Kiên Giam là một trong những trại mà sự đối xữ của cộng sản vô cùng gian ác mà các anh ở các trại tù khác chưa hề có. Nơi đây cũng là mồ chôn của các lãnh đạo đảng phái người Quảng Nam, như ông Khúc thừa Văn…và nhiều người khác. Sự đấu tranh giữa sống và chết tùy người tù nhận xét dựa vào cái tâm, hay niềm tin chế độ cộng sản sẽ sụp đổ trong tương lai. Trong đoạn dĩa (clip số 9-10,) anh kể lại sự tranh đấu thể hiện bằng tinh thần vô úy của các tu sĩ của Phật giáo cũng như Công giáo, rất hữu hiệu ở trong tù.

Anh Nguyễn chí Thiệp không ra đi trước 75, vì không muốn nhục vong quốc, nhưng ở lại càng nhục hơn trong kiếp tù  dưới chế độ cộng sản. Hãy nghe lời thiết tha kêu gọi của anh, cùng toàn thể đồng bào Việt Nam khắp nơi, (trang 148-149)

Tôi ước mơ bạn bè của tôi, và cả những người có trách nhiệm làm mất miền Nam sau khi chạy trốn thoát thân, biết kiểm điểm lại tội lỗi của mình, rút ưu khuyết điểm của cuộc chiến đấu vừa qua, gạt bỏ đi những tàn tích cũ, những thói hư tật xấu do hậu quả của lịch sử, một trăm bị nô lệ Pháp để làm lại cuộc chiến đấu mới. Người chiến sĩ không phải một lần thua trận là hết, đã là chiến sĩ thì phải đứng lên chiến đấu sau một lần bị ngã. Phải chiến đấu trở lại. Nếu sau lần ngã rồi nằm im luôn thì không xứng đáng là một chiến sĩ, không xứng đáng là một quân nhân…”

Lời  anh viết ra đây, phải chăng là tiếng Quốc kêu giữa đêm trường. Tiếng kêu đau thương ấy đang tha thiết vang vọng đến từng trái tim của mọi người Việt Nam khắp nơi trong hay ngoài nước, về một Tổ quốc Việt nam thân yêu của chúng ta đang quằn quại dưới sự cai trị tàn  ác của bọn cộng sản. Tiếng kêu thương ấy chờ đợi những bàn tay, những khối óc yêu tổ quốc, yêu đồng bào hãy cùng nhau chung lòng, chung vai gánh vác để có một Việt Nam tự do, dân chủ trong tương lai. 

Sau đây, tôi xin mạn phép trích “Phần Mở Đầu” của thiên Hồi ký Trại Kiên Giam do chính tác giả viết; xin gởi đến qúy vị độc giả và thính giả xa gần….thưởng lãm..

Quyết định không ra đi trước ngày 30-4-75 là một quyết định sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Tôi phải trả một cái giá đắt gồm 16 tháng trốn lánh trong lo âu hồi hộp, 12 năm đày đọa từ nhà tù này đến nhà tù khác, một lần vượt biển và một năm rưỡi tại trại tỵ nạn.

Tôi mất hơn 15 năm, cuối cùng tôi cũng phải tìm đến Mỹ, điều đó tôi có thể làm được trước khi miền Nam bị cộng sản xâm chiếm. Vừa đến nơi một người bạn đã cảnh giác tôi, “Đừng xem nước Mỹ là một thiên đường.” Tôi không hề xem nước Mỹ là một thiên đường- Chỉ ở nước Cộng sản mới có thiên đường, vì ở đó có nhiều tầng địa ngục. Tôi đã ở tận cùng các địa ngục đi ra. Tôi không đi tìm một thiên đường, nhưng tôi đã biết là phải chọn giữa một hoàn cảnh cực kỳ xấu, và một hoàn cảnh ít xấu hơn, chỉ giản dị thế thôi.
 Trong thực tại cuộc sống đã trả lời điểm tranh luận của các nhà triết học là “Vật chất hay tinh thần.” –Vật chất là yếu tố cần thiết để tạo ra cuộc sống, nhưng khi vật chất đầy đủ một cách tương đối thì con người cần nhu cầu cao hơn, là sự thỏa mãn tinh thần. Có thể đó là sự khác nhau giữa con người và con vật. Karl Marx đã đem cả đời để đọc để viết, kiến thức của ông bao gồm cả kho tàng triết học Đức, kinh tế học Ăng Lê,  và xã hội học Pháp, ông đã dùng duy vật biện chứng để truyền bá duy vật sử quan, những khám phá về thặng dư giá trị một thời tưởng như là kinh điển, tất cả đều là những lầm lẫn của bộ óc được xem là phi thường. Con người dùng cái trí, dù cái trí được rèn luyện, được xem là lỗi lạc vẫn bị giới hạn, và khi sự phán đoán dựa trên lý trí nếu càng sai lầm càng tai hại, chỉ có cái Tâm là không giới hạn. Có thể đó là sự khác biệt giữa các tôn giáo và Cộng sản chủ nghĩa. Các tôn giáo dùng tình thương để truyền bá giáo điều. Karl Marx và Lenine muốn lập nên một tôn giáo nhưng tôn giáo dùng hận thù làm động lực chính.
Trong một hướng khác của cuộc sống, ở các trại tù Cộng sản, (gọi là trại lao động cải tạo), người tù cũng chứng minh được giá trị tinh thần vượt trên giá trị về vật chất bằng chính bản thân họ. Không ai tưởng tượng được có những người tù đã sống được đến hơn ba năm trong xà lim tối,  với một chén cơm nhỏ, hay  chén khoai mì và nước muối mỗi ngày. Sống hay chết của những người tù trong xà lim Kiên Giam trại Xuân Phước (A-20) chỉ giải thích được là ai còn niềm tin vào giá trị tinh thần nào đó,  mới có thể kéo dài sự sống, ai mất niềm tin thì chết. Niềm tin đó có thể từ tôn giáo, từ một ý thức chính trị là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ và dân tộc Việt Nam sẽ được phục hưng, hay niềm tin vào sự yêu thương giữa con người và con người. Đó là những bài học đơn giản, thực nghiệm bằng máu và nước mắt để đả phá cái lý luận cốt lõi của triết học Cộng sản, triết học duy vật.
Nay, lý thuyết Cộng sản đã bị vứt vào sọt rác của lịch sử và chế độ Cộng sản đã sụp đổ. Hệ thống Cộng sản Quốc tế rã ra từng mãnh, và lần lần bị xoá bỏ. Sự sụp đổ của Liên Xô, và các nước Đông Âu dễ dàng và nhanh chóng đến nỗi làm cho người ta phải sửng sốt bàng hoàng, những nhà lãnh đạo các cường quốc nhiều khi còn không giấu được sự lung túng trong việc thay đổi chính sách nogại giao. Thật đơn giản, chế độ cộng sản không bị đánh sụp bằng những đạo quân hùng mạnh, với những vũ khí tối tân từ bên  ngoài, mà bị đánh sụp bằng những cuộc biểu tình của dân chúng tại nước họ trong đó có cả những người từng là đảng viên Cộng sản. Chế độ Cộng sản chỉ còn là ngắc ngoải tại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam. Cái đau đớn của người Việt Nam và trớ trêu của lịch sử dân tộc, Việt Nam, chiến trường ác liệt nhất của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Người Quốc gia dù chỉ được lãnh đạo một cách lờ mờ, vẫn kéo dài cuộc chiến đấu nghiêng ngữa gần 30 năm, để rồi sau khi người chiến sĩ chống cộng Việt Nam, chiến trường chống cộng cuối cùng sụp đổ, thì kẻ thù chung của nhân loại cũng từ từ hủy diệt trong tan rã.
Ngày 30-4-75, Sàigòn sụp đổ, tôi nghĩ giải pháp đẹp nhất cho người chiến sĩ tự trọng là tự xử không đầu hàng giặc, tôi hèn không đủ can đảm để làm một chiến sĩ tự trọng, nên tôi phải kéo lê tấm thân càng ngày càng tàn tạ từ nhà tù này đến nhà tù khác, mỗi ngày phải nuốt nhục cúi đầu. Giải pháp hào hùng nhất cho ngươòi chiến sĩ kiên cường sau một lần thất bại là tạm lui, ẩn nhẫn chờ thời, trui rèn tài đức để phục hận, tiêu diệt quân thù đem vinh quang về cho tổ quốc. Tôi không đủ bản lãnh đẻ làm một chiến sĩ kiên cường nên khi ra khỏi nhà tù tôi vội vã bỏ nước ra đi.
 Lần ra đi không phải để chạy trốn, không phải tìm cho mình một điều kiện vật chất mà mình thiếu. Mười hai năm tù, thiếu thốn những vật chất tối thiểu, có những lúc thèm ăn một hạt  muối, cục  đường,  một hơi béo. Thèm, từ ngữ diễn tả cảm giác rất sơ đảng gần như hạ tiện của con người; tôi đã từng thèm rất nhiều thứ; nhưng rồi cũng quen, đúng quen, sự thoả hiệp kỳ diệu  với hoàn cảnh, để cho con người tù sống, và giải thích đuợc lý do tại sao con người tù trong chế độ Cộng san có thể sống được trong những điều kiện mà khi kể lại người bình thường rất khó tin, cứ tưởng là người tù khoa trương sự thật.
Thời gian ở tù tôi sống chung với hàng ngàn chiến sĩ bất khuất của hàng trăm tổ chức chính trị và vũ trang chống lại chính quyền Cộng sản sau tháng 4-75. Nhiều lúc phải hổ thẹn trước tư cách của một đứa em nhỏ hay sự bình thản khi nhận lãnh án tù từ 20 năm hay chung thân của một người mà trước kia là nông dân, là công nhân hay là một binh sĩ, những người không từng được hưởng một ân huệ nào của chính quyền VNCH, nếu không nói là chính họ là nạn nhân của những bất công trong chế độ đó. Chính nhờ sự hổ thẹn đó tự thấy mình có lỗi, cũng từ đó tôi tạo được niềm tin, tin vào tương lai của dân tộc Việt Nam tại sao tồn tại được.
Ngoại nhân không ai tìm hiểu hoặc tiếp xúc một thành phần xã hôi nào đó, nhất là thành phần trí thức và thành phần nắm quyền. Họ không hiểu được sức sống của dân tộc Việt Nam là sức mạnh tiềm tàng trong quảng đại dân chúng. Sức mạnh tiềm tàng đó trong điều kiện lịch sử được kết hợp lại thành một lực lượng có lãnh đạo tốt,  thì sẽ đánh đuổi được ngoại xâm và xây dựng đất nước phú cường, ngược lại khi chưa có điều kiên tập hợp thì nó tiềm phục làm sức sống cho dân tộc tồn tại ươm chồi chờ điều kiện trỗi dậy thành rừng gỗ quý. Tôi vội vã ra đi vì tôi nghĩ là trong nước chưa có điều kiện tập hợp. Tôi nghĩ đến những người ra đi trước, làm gì không có chiến sĩ kiên cường khi thất bại tạm lui ẩn nhẫn chờ thời và sức mạnh của lòng yêu nước thiết tha của con người Việt Nam trong những ngưòi Việt Nam hải ngoại. Tôi nghĩ là thời gian gần mười lăm năm xa quá, điều kiện vật chất và gia đình được đầy đủ, tương lai con cái được bảo đảm sáng lạng, mỗi người Việt Nam lưu vong hải ngoại đều xác định được rõ thế nào là tình yêu nước, và ai cũng mơ ước một ngày về xây dựng quê hương,  để tự chứng tỏ mình là một chiến sĩ kiên cường, không phải là kẻ trốn chạy, không tổ quốc.
Bây giờ 1990, viết về nhà tù Cộng sản hay tranh luận lý thuyết Cộng sản quá chậm. Tôi chỉ mong ghi lại đây là những chứng tích một đời đã qua. Bằng lời lẽ thô thiển mộc mạc, ghi lại để nhớ ơn cha mẹ, vợ, chị, các em và những người đã giúp cho tôi có thể sống được và làm kỷ niệm đối với bạn bè, đã cùng sống với nhau những ngày gian khổ. Nhưng một số bạn bè của tôi vẫn còn ở Việt Nam, nên những sự kiện nào và những ai nếu xét thấy sự nêu tên có hại cho họ thì tôi phải ghi lại bằng một tên khác.

Quý vị nào muốn có một bộ tapes, hay DVD cuả cuốn hồi ký bất hủ này, xin hãy liên lạc với:  Nguyễn chí Thiệp theo địa chỉ sau đây: 

Nguyễn chí Thiệp
10735 Fallsbridge Dr. Houston, TX.
Tel: 77065 - (281) 807-6410

Kính giới thiệu cùng tất cả qúy đồng bào và thân hữu xa gần.

Phạm Đào Nguyên


***************


Ðọc "Trại Kiên Giam" của Nguyễn Chí Thiệp

    Sau khi cuốn hồi ký The GULAG Archipelago (Quần Ðảo Ngục Tù) của nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn (Nga) được nhà xuất bản Harper & Row (Hoa Kỳ) xuất bản năm 1973, giới văn học cũng như báo chí và truyền thông thế giới mới được biết một phần nào về chế độ lao tù của Cộng sản, đặc biệt là tại Sô Viết. Trong cộng đồng Việt Nam, trước Solzhenitsyn, năm 1969 tác giả Trần Văn Thái đã cho ra mắt cuốn hồi ký Trại Ðầm Ðùn (giải thưởng văn học nghệ thuật 1969 về bộ môn văn), nhưng có rất ít báo chí và truyền thông Việt Nam Cộng Hòa nhắc đến tác phẩm này.

    Tại hải ngoại, sau 30 tháng 4 năm 1975, tập thể người Việt tị nạn mới được hiểu rõ hơn về chế độ lao tù của Cộng sản Việt Nam qua các cuốn hồi ký như: Cùm Ðỏ của Phạm Quốc Bảo (1983), Ðại Học Máu của Hà Thúc Sinh (1985), Thép Ðen của Ðặng Chí Bình (1987), Hà Nội Báo Ðộng Ðỏ của Dương Văn Lợi (1992). Tôi đã đọc hết các quyển hồi ký này bằng một tấm lòng của một người chưa hề bị tù tội bao giờ. Nhưng càng đọc, tôi lại càng cảm thấy như chính mình đang ở trong cái hoàn cảnh nghiệt ngã ấy.

    Cùng năm 1992, tác giả Nguyễn Chí Thiệp cho ra mắt cuốn hồi ký Trại Kiên Giam nhưng tôi chưa có dịp được nhìn thấy tác phẩm, cho mãi tới hôm nay tôi mới có dịp đọc ấn bản tái bản lần thứ hai (10/2000) do văn hữu Ngô Sỹ Hân gửi tặng.

    Tôi đã lần đọc từng trang sách để cảm nhận và chia xẻ với tác giả cùng những bạn tù của ông về những nỗi khổ đau của người ngã ngựa, những tháng năm quằn quại trong lao tù Cộng Sản, những chí hướng quật khởi kiên cường, những mộng ước mai sau về một xã hội hậu Cộng Sản, v.v.. Ðọc suốt tác phẩm, tôi lắng nghe con tim mình thổn thức, xao xuyến và bồi hồi. Cảm nhận nỗi đau đớn của tác giả như chính nỗi đau đớn của mình, của dân tộc mình. Ðọc tác phẩm Trại Kiên Giam để đi tìm một ánh sáng ở cuối đường hầm, để bắt gặp những hào kiệt trong một xã hội tan rã, để gặp lại những đồng chí còn cưu mang hoài bão cho một nước Việt Nam Tự Do, v.v.

    Sau khi gấp sách lại, tâm tình lắng đọng, tôi tạm chia nội dung cuốn hồi ký Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp thành 6 phần như sau: Bối cảnh Miền Nam sau 30/4/1975, Người Cộng Sản nói về Cộng Sản, Những bài học đắng cay của chính tác giả, Những tháng năm trong lao tù Cộng Sản, Những cái nhìn thiết thực về Cộng sản, và Những mong ước và hoài bão.

I. Bối cảnh Miền Nam sau 30/4/1975

    Ở phần này, tác giả ghi lại từng chi tiết một về bối cảnh sinh hoạt của Miền Nam, nói chung, và Sài-Gòn, nói riêng, sau ngày 30/4/1975, như: sinh kế thường nhật của người dân, cảm nghĩ về chính quyền mới, sự lo lắng cho chính bản thân mình và thận phận mình, các tổ chức chống đối chế độ mới, những cuộc trình diện học tập, v.v.

    Nhờ có óc quan sát tinh tường, sự nhận thức sâu sắc và sự nhận định chính xác, tác giả đã diễn tả sự hiểu biết về Cộng Sản của người dân Miền Nam một cách tổng quát như sau: "Cái hiểu biết quá đơn sơ về Cộng Sản nên đa số chỉ nghĩ là phải khổ và chịu khổ được, chịu ăn mặc xấu xí được là có thể sống yên thân trong chế độ Cộng Sản". (trang 25) Chính sự hiểu biết quá đơn sơ ấy đã xui người dân Miền Nam phải miễn cưởng chấp nhận một cuộc đổi đời bi thảm bằng chính xương máu và nước mắt của mình.

    Nói tóm lại, tâm lý chung của người dân Miền Nam lúc bấy giờ là: "Tâm lý đứng núi nầy trông núi nọ, tình hình chính trị tồi tệ của miền Nam, sự kém hiểu biết về Cộng sản làm nhiều người không còn sợ Cộng sản". (trang 31) Không còn sợ Cộng sản nữa, nhưng họ cũng không biết phải làm gì để diệt trừ chúng, mặc dù "Ða số dân Saigon không chịu mang dép râu đội mũ tai bèo". (trang 26) Bởi vì họ đã nhìn thấy tận mắt hình ảnh của người lính Bắc Việt: "Người lính giải phóng trông ngờ nghệch, lúng túng trước cảnh rộn rịp và to lớn của Saigon, phần lớn họ rất trẻ". (trang 26) Thế mà người dân Miền Nam đã bị Cộng sản đánh lừa một cách đau đớn: "Giờ đây mấy lon gạo cứu đói là lý do buộc họ phải ra khỏi thành phố về quê sản xuất theo chính sách. Họ có cảm tưởng bị đánh lừa". (trang 31) Càng bị đánh lừa thì người dân càng thấm thía nỗi đau: "Người dân nghèo mới vỡ lẽ, cách mạng đem lại vinh quang và công bình cho người nghèo trong tổ chức của họ, còn dân nghèo muôn đời vẫn là người chịu đựng trước tiên những đau khổ, áp bức theo chính sách phải đi ra khỏi thành phố trước cả mấy ông 'ngụy quân', 'ngụy quyền' ". (trang 32)

II. Người Cộng Sản nói về Cộng Sản

    Không ai hiểu rõ Cộng sản bằng chính người Cộng sản. Chính vì thế mà chính quyền VNCH đã có chính sách chiêu hồi và sử dụng những người chiêu hồi ấy vào những công tác tình báo và tâm lý chiến, chẳng hạn như Thượng Tá Tám Hà và nhà văn Xuân Vũ, v.v. Cho tới ngày 30/4/1975 chính tác giả Nguyễn Chí Thiệp, mặc dù là một công chức trung cấp, cũng chưa có cái nhìn rõ rệt về Cộng sản cho nên ông đã quyết định ở lại để rồi sau đó phải nhận lãnh 12 năm tù.

    Sau 30/4/1975, một người chú họ của tác giả từ Hà Nội vào thăm thân nhân ở Ðà Nẵng. Khi thấy Nguyễn Chí Thiệp còn ở lại VN, ông ta ngạc nhiên hỏi: "Tại sao cháu không đi Mỹ? Về đến Ðà Nẵng, gặp chị (mẹ tôi) nói cả gia đình ở lại Saigon. Cháu không đi nước ngoài thật vô lý". (trang 36) Nhờ lần gặp đầu tiên với chú Bình (kỹ sư của Bắc Việt) tác giả mới có dịp tìm hiểu về bộ mặt thật của Cộng sản và dứt khoát chọn một thái độ.

    Chú Bình nói thẳng và nói thật với Nguyễn Chí Thiệp về chính sách trả thù của Cộng sản như sau: "Cháu đừng nghĩ trả thù chỉ là giết chếthọ sẽ không giết nhưng họ sẽ đưa đi các trại tập trung cải tạo không có ngày về". (trang 37)

    Về chủ trương của Cộng sản, chú Bình cho biết: "Ðảng chủ trương phá bỏ luân lý cũ, phá vỡ trật tự xã hội, đưa trẻ con ra ngoài xã hội, nhưng Ðảng lại quá tham lam, họ muốn sử dụng đứa trẻ mà không cưu mang nó, bắt gia đình phải nuôi nó, Ðảng chỉ dạy cho nó hận thù và những phương pháp đấu tranh. Họ phủ nhận tình thương giữa con người với nhau". (trang 38)

    Sau khi nhìn thấy tận mắt cái vết tích của sự phồn vinh của Miền Nam trước 30/4/1975, chú Bình tiết lộ về cách xảo quyệt của hệ thống tuyên truyền của Miền Bắc như sau: "Ở miền Bắc người ta đều hiểu sai về miền Nam, hệ thống tuyên truyền của Hà Nội đã mô tả xã hội miền Nam cực kỳ xấu xa, lạc hậu và nghèo đói". (trang 39)

    Ðể trả lời câu hỏi của Nguyễn Chí Thiệp "Tại sao người ta bất mãn mà không có chống đối tích cực?", chú Bình cho biết: "Không chống đối vì sức đối kháng đã bị tiêu diệt. Nghệ thuật cai trị của Cộng sản là tiêu diệt sức đề kháng của nhân dân. Chính sách công an nhan dân và nhân dân hộ khẩu nhằm thi hành mục tiêu đó". (trang 47)

    Chú Bình căn dặn tác giả:" Ðừng mong đợi tụi nó (CS) làm gì cho đất nước. Chú là đảng viên, chú được đi nhiều nơi, chú có suy nghĩcác khuyết điểm của chế độ Cộng sản là bản chất không phải là hiện tượng, vậy nên nếu có hy sinh cũng vô ích mà thôi". (trang 49)

    Nói tóm lại, "Giai cấp lãnh đạo ở miền Bắc là một triều đình tập hợp chung quanh vị Hoàng đế là lãnh tụ, cấu kết quyền lợi, dua nịnh lãnh tụ để bảo vệ quyền lợi hiện có và con đường tiến thân". (trang 56)

III. Bài học đắng cay của chính tác giả

    Sau khi được chú Bình giải thích cặn kẽ về Cộng sản, tác giả mới thấy được sự sai lầm trong quyết định ở lại, ông tự thú nhận như sau: "Lúc đó tôi mới biết hết hậu quả của một quyết định sai của tôi. Ở lại, không những tôi bị tù đầy, mà gia đình tôi cũng bị trả thù bằng chính sách phân biệt đối xử. Tôi đã nghĩ một cách sai lầm là nếu tôi có bị hoàn cảnh lịch sử bỏ rơi, thì con em tôi còn nhỏ có thể được lớn lên như là một người Việt Nam bình thường. Tôi bắt đầu thấy chính sách trả thù của Cộng sản còn độc ác hơn là tắm máu". (trang 39)

    Tác giả thố lộ tâm sự: "Những suy nghĩ làm tôi càng ân hận vì quyết định không di tản, cái quyết định ở lại thật ngu xuẩn, chỉ vì nhất thời bức xúc, tức tối những người lãnh đạo đê hèn, bỏ chạy trước địch quân mà không chiến đấu". (trang 131-132)

IV. Những tháng năm trong lao tù Cộng sản

    Tác giả thuật lại cái đói lần đầu tiên trong đời ở trong trại tù Cộng sản: "Tôi đã thèm ăn từ lâu, khởi đầu là thèm đường, rồi thèm mỡ, bây giờ thèm đủ thứ, chén cơm hẩm với nước muối bây giờ quá ngon, không đủ no, ăn vào lưng lửng nhưng ngày nào cũng mong tới giờ cơm, mỗi bữa ăn tôi cố ngồi nhai từng muỗng, nhai thật kỹ, miếng cơm thành ngọt hơn, phải chú ý nhai và kềm để cái lưỡi không cuốn nuốt miếng cơm xuống, lơ đãng một tí là miếng cơm mới đưa vào mồm đã chạy tuột xuống cuống họng một cách tự nhiên và nhanh chóng". (trang 141)

    Chỉ mới bốn tháng nằm tù mà cơn đói đã hành hạ người tù rất là khổ sở: "Kể từ thứ năm tuần đó tôi được nhận quà lần đầu tiên. Ngồi ăn vội vàng những món nhà gửi, chỉ mới bốn tháng ăn cơm với muối mà tôi như con ma đói, cái gì cũng thèm, cũng ăn qua từ ngọt đến mặn, cắn vào miệng chưa kịp nhai đã vội nuốt, ăn bụng đã no mà mắt vẫn thèm, miệng vẫn chảy nước dãi và muốn ăn nữa". (trang 169)

    Về sự thâm độc của Cộng sản, tác giả cho biết: "Cộng sản Việt Nam thâm độc hơn. Chúng giữ kẻ thù của chúng lại để làm nô lệ, làm con vật sản xuất trong các trại tập trung mà chúng không tốn kém gì vì người tù phải tự làm lấy ăn và còn phải nuôi bọn cai tù và đóng góp cho ngân sách nhà nước. (trang 171) Và Cộng sản vắt từ giọt máu của người tù ở trong trại cải tạo. Người tù đem sức ra làm lao động đến kiệt sức và chết ở đó
". (trang 251)

    Tiêu chuẩn khẩu phần cho tù nhân ở trại tù Long Khánh như sau: "Trưa và tối mỗi bữa một chén cơm độn khoai mì với nước muối, nên mới có hơn hai năm cải tạo mà những người trình diện trông đã tiều tụy lắm. Lương thực mỗi ngày cắt dần phần gạo, thời gian đầu ăn toàn cơm nhưng gạo hẩm, sau nửa cơm nửa ngô, rồi ngô được thay bằng khoai mì khô. Mức độ độn tăng dần theo thời gian, 50% độn, rồi 75%, 80%, rồi đến cuối năm 1978 mỗi tuần trại Long Khánh chỉ ăn 2 bữa cơm, 12 bữa ăn còn lại chỉ ăn khoai mì khô". (trang 249)

    Khi tù nhân ra đến trại Xuân Lộc thì khẩu phần lại teo rút đi vì cán bộ hậu cần thông đồng với cán bộ quản giáo nhà bếp để ăn chận số phần ăn của tù. Tác giả viết:  "Chúng tôi được anh em đội nhà bếp thông báo trong lần chở bắp đi đổi khoai mì, cán bộ hậu cần và cán bộ quản giáo nhà bếp thông đồng nhau chở về 10 tấn khoai mì thối của kho thực phẩm huyện Xuân Lộc. Trại sản xuất chính là ngô trắng, ngô dùng ăn độn là phần tự túc của trại cùng với phần tiêu chuẩn gạo của Bộ Nội Vụ. Theo công thức đổi các loại lương thực của nhà nước Việt Cộng đề ra là gạo = 2 ngô = 3 khoai lang = 4 khoai mì tức 1 kg [gạo] đổi 4 kg khoai mì. Như vậy tiêu chuẩn phần ăn là 15 kg gạo cho mỗi người tù trong một tháng; nếu độn 50% thì đáng lẽ phải ăn 7.5 kg gạo + 15 kg ngô hoặc 7.5 kg gạo + 22.5 kg khoai lang hay 30 kg khoai mì (sắn). Nhưng quản lý trại đã ăn gian chỉ cho ăn 7.5 kg gạo + 7.5 kg ngô, hoặc 7.5 kg khoai các loạitức là giảm lược tiêu chuẩn tổng cộng chỉ 15 kg dù ăn loại lương thực nào. Ðó là bước gian lận thứ nhất. Bước thứ hai là chúng đem ngô trắng [do] chúng tôi sản xuất ra kho huyện đổi thành ngô đỏ. Ðến năm 1978 thì mức độ độn càng cao, chúng càng ăn gian qua bước thứ ba là đem ngô đổi khoai mì khô." (trang 266)

    Vì thế nên cách ăn ở trong tù các tù nhân cũng phải ăn có phương pháp: "Hôm nào ăn ngô là tốt nhất, bốc từng hạt ngô vừa nhai vừa đếm, mỗi hạt ngô nhai thành 50 hay 100 lần thật kỹ, nhai kỹ hơn cả kiểu ăn Osawa gạo lức muối mè. Nhai nhiều lần không nuốt thì hạt ngô cũng biến vào cổ lúc nào không hay. Lại tiếp tục nhai đến hạt khác. Thường thường mỗi bữa ăn từ hơn 250 đến 260 hạt, lần nhiều nhất được 267 hạt và có lần ít chỉ được 187 hạt". (trang311)

    Tới năm thứ ba trong tù (1979), tác giả diễn tả thân thể của mình như sau: "Nằm nắn bóp thân thể hàng ngày, sờ rõ những khoản lồi lõm trên đầu, trên mặt, ở cổ tay, cổ chân, khuỷu tay, đầu gối, chỗ nào cũng lòi ra, hai cái mông đã teo hết thịt, xương mông lồi ra chạm vào bệ nằm đau điếng khi chuyển trở mình". (trang 312)

    Miếng ăn ở trong tù là một nhu cầu tối quan trọng, nhất là những người bị nhốt trong xà lim lâu ngày như Nguyễn Chí Thiệp. Tác giả thuật lại như sau: "Nằm mãi xà lim, kiểm lại thân thể và những nhu cầu đòi hỏi, tôi tưởng mỡ với đường là quan trọng; nhưng khi thèm muối mới thấy muối còn quan trọng hơn cả đường mỡ. Không có muối con người cứ mỏi mệt dần dần, mỏi từ thớ thịt đến từng khớp xương. (trang 315) Ông viết tiếp: Nhắc tới thịt tôi cũng rỏ nước miếng, nuốt liền mấy lần nước miếng vẫn ứa ra đầy mồm. Tôi đang thèm mọi thứ, đã 38 ngày ăn lạt, không có tí muối, người đã rã rượi, mỏi nhừ, chỉ cần một muỗng nước muối đã là hạnh phúc lắm đừng nói đến đường hay một miếng thịt, nhất là miếng mỡ heo". (trang 322)

    Tác giả diễn tả giá trị của miếng thịt và cục đường ở trong xà lim như sau: "Chết và Sống đối với người tù kỷ luật tính hàng ngày, hàng giờ. Một món thức ăn vô cùng quan trọng, có thể kéo dài thêm sự sống một thời gian ngắn, không chừng trong thời gian đó lại được thả ra, lúc đó thì lại sống trở lại, giá trị miếng thịt, cục đường nó ngang với sự sống trong hoàn cảnh này". (trang 322)

    Ở trại tù Xuân Lộc tương đối ít khắc nghiệt hơn trại tù Xuân Phước (tức trại Kiên Giam) mà người tù còn bị miếng ăn dằn vật đến như thế, thử tưởng tượng ở trại tù Kiên Giam người tù nhân bị bao tử hành hạ tới bực nào!

V. Những cái nhìn thiết thực về Cộng sản

    Vì ngây thơ về Cộng sản nên tác giả Nguyễn Chí Thiệp đã đổi lấy một bài học bằng12 năm tù, do đó ông mới có cái nhìn thiết thực về Cộng sản: "độc lập dân tộc chỉ là một bước chiến lược. Xây dựng chủ nghĩa xã hội mới là cứu cánh". (trang 45)

    Nhận xét về các lãnh tụ Cộng sản, Nguyễn Chí Thiệp tiết lộ như sau: "Họ làm lãnh tụ cách mạng là biết cách thúc đẩy toàn dân làm cách mạng, còn họ thì hưởng, gia đình họ hưởng; họ quyết tâm giải phóng miền Nam, nhưng ra chiến trường là người khác chết, con em người khác chết. Các lãnh tụ không ai có con phải vào chiến trường B cả, con của họ đi học ngoại quốc. Họ cấu kết nhau thành một tầng lớp thủ lợi riêng tư sống trên xương máu của nhân dân, cấu kết với nhau trong nước chưa đủ để củng cố địa vị, họ còn cấu kết với nước ngoài. Ông Lê Duẩn đem gả con gái cho cháu trai của Breznev bên Liên Sô không phải để giữ chắc cái ghế Tổng Bí Thư là gì". (trang 187)

    Tại sao Cộng sản chủ trương bạo lực, tập trung Dân Chủ và đấu tranh giai cấp? Tác giả Nguyễn Chí Thiệp trả lời như sau: "Ðảng Cộng sản và chủ trương bạo lực là phương tiện để các nhà lãnh đạo củng cố chính quyền độc tài của mình, biến người dân thành một công cụ sản xuất. Tập trung Dân Chủ là một thuật ngữ để biện minh cho tính độc tài, đấu tranh giai cấp là một đường lối để tiêu diệt kẻ đối lập". (trang 260)

    Tác giả than: "Chính sách của Cộng sản đã phi nhân, tàn nhẫn mà tổ chức chính quyền còn làm cho sự tàn nhẫn đó tăng thêm nữa". (trang 265) Ông viết tiếp: "Xã hội Cộng sản, con người chỉ phát triển tính ác. Tóm lại, chế độ Cộng sản được xây dựng trên một lý thuyết sai lầm, dùng hận thù làm một động lực kết hợp và phát triển, khai thác tính ác, tính xấu và tính đố kỵ bần tiện của con người; tổ chức nặng nề và thư lại nên chế độ Cộng sản là một chế độ cực kỳ xấu xa, con người Cộng sản hầu hết là những người độc ác và đê tiện. Dân chúng sống trong chế độ Cộng sản cực kỳ nghèo đói, khổ sở". (trang 272)

    Ðể trả lời câu hỏi Liệu chế độ Cộng sản có thể tồn tại lâu dài tại Việt Nam hay không?, tác giả quả quyết: "chế độ Cộng sản không thể tồn tại lâu dài ở Việt Nam, nó không phải là bất khả thay thế hay bất khả đánh đổ như những người trí thức ở Hội Trí Thức Yêu Nước lý luận". (trang 197) Vì rằng "Nó chỉ tồn tại ở bên ngoài bởi tổ chức và bạo lực áp bức, còn bên trong nó bị chính con người đào tạo ra nó từ khước". (trang 197) Tuy nhiên, tác giả cẩn thận nhắc nhở chúng ta: "Nó sẽ bị đánh đổ, nhưng muốn đánh đổ một chính quyền có sức mạnh bạo lực và có tổ chức chặt chẽ là một vấn đề rất khó khăn và đòi hỏi thời gian, không phải một sớm một chiều mà làm được như nhiều người mong muốn". (trang 197-198)

    Về phương thức chống Cộng sản ở trong nhà tù, tác giả tiết lộ như sau: "Bọn cán bộ Cộng sản được giáo dục hận thù, chúng càng thấy người tù khổ sở, đau đớn chúng càng thích thú. Chỉ có giữ cho tinh thần vững mạnh là một phương thức chống Cộng sản căn bản nhất trong nhà tù. Chịu sự hành hạ mà không tỏ ra khổ sở, vẫn dửng dưng càng làm cho bọn cán bộ Cộng sản tức tối". (trang 230)

    Nhận xét về biện pháp tẩy não của Việt Cộng, tác giả viết: "Không phải chỉ có những bài học tuyên truyền, bằng luận cứ một chiều, bằng những từ ngữ khuôn mẫu để tẩy não người tù; mà bằng cách sống hàng ngày, tạo sự sợ hãi và tuân phục cũng là một biện pháp tẩy não". (trang 254)

VI. Những mong ước và hoài bão

    Ngay cả những lúc nằm trong xà lim, Nguyễn Chí Thiệp vẫn luôn mơ ước có một cuộc chiến đấu mới: "Tôi mơ ước bạn bè của tôi và cả những người có trách nhiệm làm mất miền Nam sau khi chạy trốn thoát thân, biết kiểm điểm lại tội lỗi của mình, rút ưu khuyết điểm của cuộc chiến đấu vừa qua, gạt bỏ đi những tàn tích cũ, những thói hư tật xấu do hậu quả của lịch sử một trăm năm bị nô lệ Pháp để làm lại một cuốc chiến đấu mới. Người chiến sĩ không phải một lần thua trận là hếtđã là chiến sĩ phải đứng lên chiến đấu sau một lần bị ngã. Phải chiến đấu trở lại. Nếu sau lần ngã rồi nằm im luôn thì không xứng đáng là một chiến sĩ, không xứng đáng là một quân nhân". (trang 133)

    Ông cũng mong cả những nhà lãnh đạo Miền Nam và các Tướng lãnh hãy làm lại một cuộc chiến đấu mới: "Tôi mong Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, các Tướng lãnh đã chạy ra ngoại quốc không nằm hưởng những của cải thu gópsống cuộc sống xa hoa ở ngoại quốc. Tôi mong họ tiếp tục tập hợp lại những người đã chạy. Nhận rõ những lỗi lầm của mình với dân với nướcnếu họ không làm được như vậy, họ không xứng đáng mang danh dự là một chiến sĩ. Tôi tin tưởng vào sức sống của dân tộc, vào tinh thần chống Cộng của toàn dân đang biểu lộ rất nồng nhiệt chỉ thời gian ngắn sau khi Cộng sản chiếm hoàn toàn nước Việt Nam, thật nhạy bén khi họ nhận rõ Xã Hội Chủ Nghĩa không phải là một mô thức cần thiết để xây dựng đất nước, sự từ khước văn hóa Cộng sản ở mọi người dân Việt Nam kể cả những người nông dân trước kia đội gạo nuôi kháng chiến và kể cả tiềm tàng những người đảng viên Cộng sản có tâm huyết với sự tồn tại và phát triển của dân tộc và đất nước như chú Bình và theo như lời chú Bình, thành phần này không ít trong hàng ngũ đảng viên Cộng sản, họ chỉ chờ thời cơ là làm một cuộc chiến đấu mới". (trang133-134)

    Bởi vì "Việt cộng chiếm miền Nam không phải đã kết thúc một cuộc chiến tranh, nó chỉ kết thúc một giai đoạn lịch sử và nó khởi đầu một giai đoạn lịch sử mới". (trang 124)

    Tác giả hy vọng: "Tôi hy vọng rất nhiều vào tương lai, luôn luôn tôi có niềm tin là đất nước Việt Nam sẽ có ngày hưng thịnh trở lại, và toàn dân Việt Nam sẽ đứng lên làm một cuộc vận động lịch sử mới cho dân tộc, tất cả hầu như đã sẵn sàng chỉ còn chờ một hiệu lệnh phát khởi. Tôi tin vào sự trưởng thành của dân chúng và trong vận hội mới đó sẽ lọc lựa được những người đủ tài trí, thực tâm đối với con người, xã hội và đất nước thành người lãnh đạo tương lai và sẽ tự động đào thải những thành phần cơ hội, hoạt đầu tham vọng cá nhân". (trang 513)

    Và tác giả luôn vững tin vào một ngày mai chế độ Cộng sản sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn: "Các nước Cộng sản không thể giam hãm mãi con người và tư tưởng của dân chúng sau bức màn sắt. Những nhận thức và hiểu biết mới về con người, làm cho tư duy thuần lý, giáo điều và các cơ cấu chính trị, kinh tế trên hệ tư tưởng đó trở nên lỗi thời. Ðó là nguyên nhân sự cáo chung của chủ nghĩa Cộng sản. Cộng sàn chỉ còn lại hình thức tổ chức, ở nơi nào dân chúng và chính đảng viên Cộng sản đứng lên đấu tranh xóa bỏ tổ chức thì chế độ Cộng sản sẽ [bị] tiêu diệt hoàn toàn". (trang 526)

    Vì: "Trước kia lòng yêu nước và tình thương con người và lý tưởng công bằng bị Cộng sản tương tranh và họ ở thế hấp dẫn hơn. Ngày nay, chúng ta hoàn toàn thuận lợi ở những giá trị tinh thần này. Chỉ có những giá trị tinh thần này mới là động lực của toàn dân. Sức mạnh tinh thần cộng thêm phương tiện vật chất và kỹ thuật tổ chức là những yếu tố tất thắng của người quốc gia. Sức mạnh tinh thần đã có; chỉ còn hai yếu tố sau, như vậy, vấn đề chống Cộng ngày hôm nay sớm muộn tùy thuộc vào khả năng kết hợp thành tổ chức và sự huy động phương tiện, phương tiện có thể từ chính của chúng ta có được hay cả sự giúp đỡ của đồng minh". (trang 531)

* * *

    Ðể kết thúc "Lời Nói Ðầu của Dịch Giả" cho bản dịch cuốn hồi ký "Lời Nguyện Cầu" (in năm 1986) của Sergei Kourdakov, nhà văn Nhị Lang đã hạ bút như sau: "Thương tiếc Sergei Kourdakov, tôi quyết truyền bá những giòng chữ viết bằng máu và nước mắt của anh, để gọi là góp công cùng anh trong công cuộc đấu tranh tràng kỳ chống chủ nghĩa mác-xít vô thần và bảo vệ tín ngưỡng. Tôi cũng hy vọng tấm gương phản tỉnh của anh sẽ làm sáng mắt những kẻ nào ở đây, ở khắp thế giới, và ở Việt Nam, đã và đang rắp ranh bán rẻ linh hồn cho bọn quỷ đỏ, để đời đời bị nguyền rủa, bị chà đạp, bị khinh khi, như những thứ vi trùng ghẻ lở, như những đứa sát nhân ghê tởm mà xã hội văn minh không bao giờ dung thứ".

    Vâng, Cộng sản Việt Nam quả đúng là những thứ vi trùng ghẻ lở, những đứa sát nhân ghê tởm mà người Việt Nam không bao giờ dung thứ được.

    Người viết hy vọng cuốn hồi ký của Nguyễn Chí Thiệp và cả những cuốn hồi ký khác sẽ là những tiếng chuông cảnh tỉnh cho những người Cộng sản Việt Nam mau sớm thức tỉnh mà quay đầu tạ tội với Quốc Dân, lập tức từ bỏ bạo lực, và nhường quyền lãnh đạo đất nước cho những người thực sự yêu nước và có trình độ hiểu biết cao hầu tái lập lại một xã hội công bằng, bác ái và lành mạnh để đất nước sớm vươn mình cùng những nước anh em văn minh tân tiến, hòa bình và thịnh vượng trên thế giới. Tôi cũng hy vọng tác giả cuốn hồi ký "Trại Kiên Giam" luôn luôn giữ được bầu nhiệt huyết và ý chí kiên cường của thuở nằm gai nếm mật để cùng các hào kiệt đứng lên mở một mặt trận mới cho đến ngày thắng lợi của Dân Tộc.

(Ðức Phố, ngày 5 tháng 10 năm 2002)
Vĩnh Liêm


****************