15/6/12

Vĩnh biệt anh Trương Văn Sương


Anh Trương Văn Sương

Mấy hôm nay, kể từ ngày anh Trương Văn Sương về cõi vĩnh hằng, có rất nhiều người thương tiếc anh, viết về anh trong đó có bài của luật sư Nguyễn Văn Đài và anh Nguyễn Ngọc Quang rất cảm động. Nhưng tôi vẫn bâng khuâng hình như thiếu vắng một cái gì đó.

Tôi thầm đếm lại thời gian, từ khi chúng tôi chia tay nhau ở trại giam Nam Hà. Đó là ngày 27 tháng 10 năm 2002 - ngày cuối cùng trong mười năm tù khổ sai của tôi. Từ đó đến khi anh Sương được tạm rời nhà tù nhỏ về chữa bệnh là ngày 12/7 năm 2010 như vậy là tám năm, có nghĩa là kể từ 2002 đến năm 2010, anh đã trải qua một thời gian gần bằng bản án của tôi !

Khi tôi gặp anh ở trại giam A20 Phú Yên vào năm 1994 thì anh đã ở trong nhà tù Cộng sản tổng cộng gần 18 năm - một thời gian làm cho bất cứ ai nghe cũng thấy choáng váng mặt mày.

Tôi viết bài này để tưởng nhớ anh như một người bạn cũ và cũng với tư cách là một người ngưỡng mộ anh. Vì anh là một tù nhân chính trị vô cùng đặc biệt: một tù nhân chính trị có thâm niên lâu nhất (hơn hẳn người tù chính trị trước đây được cả thế giới tôn vinh là Nelson Mandela), là một tù nhân chính trị bị biệt giam nhiều nhất và lâu nhất. Nhưng còn có một cái “nhất” nữa không thể không nhắc đến: anh là tù nhân gian khổ nhất, bất hạnh nhất.

Trong suốt cả quãng đời tù đày hơn 30 năm anh không hề có thăm nuôi, tiếp tế gì. Cả một lá thư cũng không. Nếu ai đã trải qua một thời gian nào đó trong tù sẽ cảm nhận được nỗi buồn này. Cứ tưởng tượng những ngày sắp Tết là những ngày tù nhân được gia đình viếng thăm hoặc gởi quà, gởi tiền, gởi thư. Ai ai cũng vui mừng vì được tiếp tế, được gặp người thân, được đọc thư của con, của vợ. Những điều này vô cùng quan trọng với người tù vì họ được an ủi, được tiếp sức. Anh Trương Văn Sương không có được những điều đó. Anh phải chịu đựng sự thiếu thốn đến cùng cực cả vật chất lẫn tinh thần.

Năm 2001 và 2002 trước sự o ép, đàn áp của Ban giám thị trại giam Nam Hà, chúng tôi - những người quyết liệt đấu tranh để cải thiện đời sống của tù nhân phải ngồi chung lại với nhau, để bảo vệ và chia sẻ cho nhau. Cho nên, tôi, anh Trương Văn Sương và anh Lê Văn Tiến quây quần bên nhau trong một mâm ăn, vì chúng tôi có cùng quan điểm (tạm gọi là “phe cứng rắn” trong tập thế “ôn hòa”).

Chính những ngày tháng sẻ chia này mà tôi đã được nghe anh Sương và anh Tiến kể về những gian khổ, thiếu thốn họ đã trải qua. Câu chuyện thương tâm các anh kể mà tôi không bao giờ quên được là thời điểm của những năm 1980 - cái đói đã làm cho hai anh suy kiệt đến tận cùng, chỉ còn da bọc xương, bước đi loạng choạng, mắt mờ, nằm xuống là ngủ và luôn chiêm bao thấy được ăn uống thỏa thích. Khi đi làm theo đội hoặc lúc ở biệt giam họ ăn tất cả những con gì có thể ăn được như chuột, rắn, dế và cả thằn lằn. Họ nướng chúng bằng lá cây, bằng giấy vụn một cách sơ sài. Theo lời của anh Trương Văn Sương và Lê Văn Tiến kể thì lúc đó “đói đến nỗi mấy con thằn lằn nướng sơ sài ăn sao mà ngọt, mà ngon vô cùng!”.

Tôi không biết khi nhắc đến điều này có xúc phạm vong linh của anh Sương không? Tôi mong anh tha thứ, nhưng tôi phải nói lên điều này để nhân loại văn minh hiểu được  sự “ưu việt”, chính sách “nhân đạo” của chế độ cộng sản và bản lĩnh phi thường của những tù nhân chính trị Việt Nam.

Kể từ sau năm 1975, khi Việt nam Cộng Hòa sụp đổ, đã có hàng triệu người con của mẹ Việt nam vì lý tưởng Tự do đã phải sống trong hoàn cảnh tù ngục như thế. Tôi được biết không chỉ có một Trương Văn Sương hay Lê Văn Tiến (đảng Việt Tân) mà còn có những người cùng cảnh ngộ như Nguyễn Văn Trung (một anh hùng thực sự của nhà tù mà tôi đã đi qua) Trần Nam Phương, Dương văn Sỹ (cả 3 người này đều mang án chung thân) Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Đình Oai và 2 người nữa trong tổ chức của ông Hoàng Cơ Minh là Nguyễn Văn SạchDanh Bảo… Họ là những con người mà sức chịu đựng làm cho chúng ta kinh ngạc, nhưng họ đã sống và đã ngẩng cao đầu trong suốt cuộc trường chinh trong nhà tù Cộng sản..

Tôi viết bài này để vĩnh biệt anh Trương văn Sương và cũng để vinh danh những người tù chính trị Việt Nam.

A20 Huỳnh Ngọc Tuấn.
18/9/2011




14/6/12

TRONG SƯƠNG MÙ XUÂN PHƯỚC !




                                                                                          Ý Cơ
(A20 Vũ Trọng Khải phu nhân)

Viết cho ngày Hội Ngộ A-20 kỳ hai (1/7/2012)

                                                                        lũ chúng ta, cứ bù đầu chật vật
                                                                   sống sót nên đành kiếm nhau hụt hơi
                                                                    để tiếc, để thương, để nhắc một thời
                                                                 cắn răng nén nhục mười năm xiềng xích
                                                              (NTK “Rót cho người xa xứ”. 29/5/2012)


          Mấy tháng vừa qua, với những emails, với những hẹn hò qua điện thoại viễn liên, hay các buổi gặp mặt thăm viếng, bàn tính, rủ nhau đi tham dự Ngày Hội Ngộ kỳ 2/ A. 20 của chồng tôi và các bạn, những cựu tù nhân chính trị của trại giam A. 20 Xuân Phước khi xưa, đã làm xao động nhiều cảm xúc trong tôi, gợi nhớ về thời gian đi thăm nuôi chồng tù tại khu trại này.

 Trôi theo dòng lịch sử của đất nước, biến cố tháng 4 năm 1975, các anh đã từ mọi miền đất nước bị đưa đẩy gặp nhau trong không gian âm u của núi rừng Phú Khánh, nơi có một trại tù mệnh danh “TRẠI TRỪNG GIỚI” với nhiều phân trại khác nhau, nằm sâu trong thung lũng Xuân Phước, nơi đó  sau này được mang tên: “Thung Lũng Tử Thần !”

 Với chế độ hà khắc, dã man của trại, đã biến các anh thành những bóng ma xanh xao, khô héo.

       Một xã hội thu nhỏ…
       Một TRƯỜNG ĐỜI siết chặt….     

Tháng Tư về



Cứ mỗi lần tháng tư về là tiết trời bắt đầu oi bức, những cơn gió Nồm từ biển thổi vào cũng không làm sao xóa tan được cái cảm giác khô nóng của mùa hè. Tôi đi dọc theo bờ sông Bàn Thạch nhìn dòng nước đục ngầu uể oải xuôi về Đông, mang theo nó là những rác rến, xác chết súc vật và rất nhiều những thứ bẩn thỉu khác.

Trên bờ sông này trước đây là xóm làng trù phú, yên tĩnh và trong lành với rừng cây sưa tỏa bóng. Mỗi lần tháng tư về hoa sưa vàng rực một khoảng trời, mùi thơm dịu dàng quyến rũ, làm cho tôi ngày ấy – một cậu bé nhiều mơ mộng choáng ngợp trước vẻ đẹp rực rỡ của thiên nhiên mùa hè thường hay đứng ngẫn ngơ nhìn và suy nghĩ vu vơ… tháng tư về sân trường rộn ràng tiếng ve, khúc nhạc cất lên cùng giai điệu từ thưở ban sơ cho đến mãi mãi vô cùng, trong lòng các cô cậu lúc này chùng xuống một nỗi buồn nhè nhẹ, khi những cánh phượng hồng  chớm nở trên sân trường, trên đường đi học.

Về thăm trại cũ



Vượt Trà Bương ta về Kỳ Lộ
qua La Hai đứng ngó bóng tàu
núi chập chùng, núi dựng trên cao
giữa thung lũng trại thù còn đó

Trại Trừng Giới những ngày sóng gió
dấu gông cùm còn buốt trên da
mấy mươi năm - mấy mươi năm qua
chưa cơ hội một lần trả hận

ta về thăm những ngày lận đận
thăm bạn bè đã lỡ, nằm đây
đồi Vĩnh Biệt mộ chí còn đầy
và kẻ chết thù xưa vẫn nhớ

làm sao quên, một thời rách áo
mười năm dai dẳng một chuyến đi
Trại Trừng Giới, lò nung ý chí
chỗ của xích xiềng rổn rảng khua

làm sao quên những ngày rớt mưa
đất miền Trung lũ tràn lên núi
những lát khoai mì khô đen đủi
như mối thù nuốt vội cho qua

những thân người còn lại xương,da
dưới nắng hạ Lào leo lên dốc
lao phổi, và cơn ho khô khốc
kẻ chết còn máu ứa trên môi

làm sao quên những ngày nổi dậy
trên gông cùm sang sảng quốc ca
dìu nhau chờ dựng lại sơn hà
dựa lưng trong tận cùng địa ngục

ta về thăm góc rừng năm cũ
để nghe trong chiều tiếng vang vang
bảy cánh chim vượt ngục ngang tàng
trước lũ giặc luôn ghìm tay súng

ta về thăm những ngày xưa cũ
kín đáo chuyền tay tờ Hợp Đoàn
Trại Trừng Giới - giấc ngủ không ngon
chí cả vươn lên từ xương máu

những Ánh, Phan, Nhì, Khải,Thiệp
những Thuật, Trung, Dũng, Chí Thành
giữa rừng chiều, giữa núi lạnh tanh
ta nhắc khẽ tên người cố cựu

trại giặc ta về thăm chưa đủ
những bi hùng ca thuở xa xưa
bao năm rồi nắng xế, chiều mưa
Xuân Phước A20 - một thời xương máu


A20 nguyễn thanh-khiết
12-2011


Xuân Muộn


 Mùa xuân năm nay đến muộn, mãi đến 13 tháng giêng âm lịch mới lập xuân. Những ngày Tết trời lạnh và u ám, mưa lất phất bay, hình như mùa đông vẫn còn ngự trị, các chàng trai cô gái co ro trong những bộ áo quần mới, họ ngồi nhìn mưa, liên tục cắn hạt dưa và chuyện phiếm, trong những câu chuyện đó tôi nhận ra phảng phất một nỗi buồn về một tương lai thiếu vắng niềm tin nơi bản thân và xã hội. 

Về bản thân, những chàng trai cô gái này cảm thấy bất an, vì sau những năm dài miệt mài trong trường Đại học, với những gói mì tôm lót lòng là thường trực, sinh hoạt tù túng trong căn phòng trọ chật hẹp, ẩm thấp vào mùa đông, nóng bức trong mùa hè, vẫn còn ám ảnh và còn đó những khoản vay từ ngân hàng, từ bà con họ mạc chưa trả được, vẫn còn đó nỗi lo lắng của cha mẹ khi một năm trôi qua rồi kể từ ngày hân hoan đón nhận cái bằng tốt nghiệp mà công việc vẫn ngoài tầm tay với. 

Ở Việt Nam bây giờ muốn có một công việc ổn định tại thành phố phải có từ 50 triệu đến vài trăm triệu để “lót đường”, với mức lương cơ bản từ 2 triệu đến 4 triệu đồng một tháng, đó là đối với những kỹ sư hoặc cử nhân. Còn đối với những anh chị có bằng Trung cấp, Cao đẳng thì cơ hội tìm kiếm việc làm còn khó khăn hơn rất nhiều và có thể là vô vọng nếu không phải là “con cháu các cụ”. 

Về xã hội, thái độ bàng quan, vô cảm vẫn là căn bệnh trầm kha, tuy nhận biết xã hội này đầy dẫy bất công, tham nhũng tràn lan, đạo đức suy đồi, niềm tự hào dân tộc xuống đến mức Zero, an ninh quốc gia bị Trung cộng đe dọa, những nhà lãnh đạo đất nước thì “khôn ngoan” đến mức không còn phân biệt được lằn ranh giữa bạn và thù, “đồng chí” và kẻ xâm lược. 

 Lá cờ 6 sao của TC xuất hiện trong buổi lễ chính thức tại Hà Nội khi tiếp đón lãnh đạo “thiên triều” Tập Cận Bình vẫn chưa khơi gợi được một sự bất an nào trong tâm thức của giới trẻ VN. 

 Họ bất mãn với xã hội nhưng không muốn làm gì để hoàn thiện nó, hoặc thay đổi nó. Họ chọn một chỗ đứng an toàn để chờ ai đó làm thay cho họ. Họ không hề biết đất nước này là của họ, nó tùy thuộc vào chính thái độ và hành vi ứng xử của họ, và họ là người chủ đất nước này hoặc là nô lệ trên đất nước mà tiền nhân của họ để lại. Họ có thể là người sáng tạo nên lịch sử hoặc là nạn nhân của lịch sử. 

Họ bàn bạc với nhau về mọi thứ, về tình yêu, về thời trang, về công việc của họ hiện nay hoặc đang tìm kiếm. Họ bàn về những “đại gia” tại VN với những tài sản khổng lồ, như những ngôi biệt thự rải rác khắp nước của ông lãnh đạo nào đó, những chiếc xe hơi hàng tỉ đồng và cung cách tiêu tiền như rác của cậu ấm cô chiêu nào đó… tôi hỏi một anh bạn trẻ: 

 - Vậy những người đó lấy tiền ở đâu mà nhiều thế ? 

Anh bạn trẻ trả lời rất tự nhiên và xác tín những gì anh nói: 

- Tiền từ tham nhũng hối lộ, từ rút ruột công trình, vơ vắt tài nguyên quốc gia đem bán, từ cướp đất của người dân …v v và v v. 

Một anh bạn khác chen vào: 

 - Đất đai bây giờ là vàng bạc, đây là nguồn thu cực kỳ quan trọng của chế độ để nuôi sống guồng máy hiện nay, nếu có một ngày, vì một lý do nào đó họ mất nguồn thu này thì chế độ này coi như “mất máu” khó mà đứng vững được chú ạ! 

Tôi nhận ra giới trẻ Việt nam rất thông minh chứ không tầm thường tí nào, họ đã nhận ra tử huyệt của chế độ, cái nhìn mang tầm vóc chiến lược chứ không vừa, và tôi cảm thấy một niềm tin mãnh liệt dâng lên trong lòng. 

Tôi cố tìm xem câu trả lời nằm ở đâu khi những người trẻ của chúng ta biết đó là một vấn nạn ô nhục của quốc gia nhưng có vẻ như họ chấp nhận nó, chung sống với nó và cúi đầu chịu đựng nó. 

 Tôi hướng họ sang đề tài chính trị. 

- Ở Đài Loan vừa rồi, qua cuộc bầu cử Tổng thống có một câu chuyện vui như thế này: Một người Đài Loan tự hào nói với một người Việt Nam rằng: - Bầu cử tại Đài Loan chúng tôi Tự do, Dân chủ, minh bạch, chính xác, trong sáng và có kết quả nhanh chóng sau 24 giờ”. 

Anh chàng VN phản bác: 

 - Sau 24 giờ mới biết kết quả thì có gì đáng tự hào, ở nước chúng tôi người ta biết được kết quả bầu cử Quốc hội trước đó một năm!!??. 

 Họ cùng cười và trả lời: 

- Vì đã được "cơ cấu" trước rồi chú ạ, chế độ “Đảng cử -dân bầu” mà! 

 Nhưng câu chuyện chỉ dừng lại ở đó mà không có cô cậu nào bàn tiếp… vì sự “tế nhị” của nó. Người dân VN hiện nay rất nhạy cảm với sự “tế nhị” hay nói chính xác hơn là sự sợ hãi. 

Tôi đã nhận chân được vấn đề, sự sợ hãi chính là trói buộc làm cho người dân xa lánh chính trị, bàng quan với thời cuộc và vận mệnh quốc gia. Tôi cảm thấy bức bối, cầm chiếc dù trên tay đi ra đường cho dễ chịu, những hạt mưa bay bay như bụi, những đợt gió lạnh từ phương Bắc vẫn tiếp tục đổ về, trời u ám… nó giống như tình cảnh của đất nước này. 

Hôm nay đã là 20 âm lịch, tôi làm một chuyến du xuân về miền quê, đến tận cảng Dung Quất, dọc đường đi, nhìn những cây mai trổ hoa vàng rực rỡ, mùi hương dịu dàng thoảng bay trong gió, lòng nhẹ nhàng lâng lâng trước cảnh sắc mùa xuân. Người ta nói mai là sứ giả của mùa Xuân thật đúng như vậy, mai bắt đầu nở rộ từ ngày lập xuân đến nay, nếu không có mai người ta khó cảm nhận được trời đất đã sang xuân. 

 Cảng Dung Quất đây rồi, trước mắt tôi là làn nước xanh thăm thẳm với những tảng đá to nhô lên từ đáy biển tạo nên vẻ đẹp quyến rủ và tráng lệ, nắng ấm làm cho không khí trong veo và nhẹ nhàng. Những cơn gió Nồm từ ngoài biển thổi vào lồng lộng mang theo hương vị biển khơi thật dễ chịu. Nhìn những chiếc tàu bắt đầu rẽ sóng ra khơi, hoặc đang chuẩn bị tất bật cho một chuyến đi dài đầy bất an và mạo hiểm. Tôi ước ao một mùa cá bội thu sẽ đến với ngư dân của chúng ta, những người ngày đêm bám biển để giữ gìn di sản của tổ tiên, để cung cấp cho mọi người những bữa ăn bổ dưỡng, ngon lành từ biển quê hương. 

Trước cảnh sắc mùa xuân huy hoàng và non sông gấm vóc làm cho lòng tôi tràn đầy hy vọng về tương lai của đất nước và dân tộc mình... Mùa xuân Dân chủ - tự do đã đến với các dân tộc Bắc Phi, Trung Đông và Miến Điện, tôi tin rằng cũng giống như mùa Xuân năm nay đến muộn, nhưng cuối cùng nó cũng đến vì đó là quy luật của đất trời.

Huỳnh Ngọc Tuấn 
3-2012




Hồi ức về nhà tù cộng sản Việt Nam



A20 Huỳnh Ngọc Tuấn




Kính tặng anh Nguyễn Ngọc Đăng

Các anh các chú đã từng đi qua những nhà tù Xuân Phước-Thanh Hóa-Nam Hà
Kính nhớ Bác sĩ Nguyễn Kim Long, chú Nguyễn Trưởng, anh Nguyễn Văn Bảo, anh Đỗ Hườn

Những người đã nằm xuống trong nhà tù Cộng sản Việt Nam vì những giá trị Dân chủ Nhân quyền.

Huỳnh Ngọc Tuấn

 
*****


(Phần 1)
Miền Trung Việt Nam bây giờ là chớm đông với những cơn mưa trút nước. Cánh đồng trước mặt một ngày trước đây mướt xanh màu lúa non, bây giờ đã mênh mông nước bạc. Những con đường nhỏ ngập ngụa trong bùn và rác…chẳng đi đâu được, đọc sách hoài cũng chán, mở tivi ra thi cứ toàn phim Tàu và những lời lẽ tuyên truyền cũ rích nhai đi nhai lại. Chỉ còn biết ngồi nhìn mưa và vừa nhận được email từ Úc: Ông bạn Nguyễn Ngọc Đăng đang bị ốm. Lòng buồn rười rượi. Bao nhiêu kỷ niệm lại quay về.

Trại giam Xuân Phước - Phú Yên, mùa đông 1994

Những cơn mưa nhỏ lất phất, trời không lạnh, những người tù chính trị chúng tôi trong đội 12 vào nghỉ giải lao trong một căn nhà lợp lá dừa. Cũng không phải là nhà vì chỉ có mái che, chung quanh không có phên vách gì.

12/4/12

Trại Trừng Giới A20


A20 Tống Phước Hiền

Kính thưa quý bạn đọc,

Những ngày hôm nay, 37 năm về trước, quê hương chúng ta đang đứng trên bờ vực nguy khốn. Bây giờ nhìn lại, chúng ta không khỏi ngậm ngùi thân phận quê hương, gia đình và chính chúng ta. Buồn đau thật nhiều, trách bạn và cũng trách chính mình!

Đây là thời gian, chúng ta nhìn về quá khứ , nhìn về quê hương trầm thống. Chúng ta cần bình tĩnh nhận định lại để tìm phương kế giải cứu quê hương.

Đã quá đủ cho những giòng lệ rơi vì tang tóc, nghiệt ngã, đoạn trường vì non sông trong  tay tay nội thù cộng sản Việt Nam.

Quê hương đang cần chúng ta hành động!


11/4/12

Thiên thần trong ngục tối: “Long Bô”



A20 Phạm Đức Nhì

        Tôi vừa cầm ly nước mía lợn cợn đá mát lạnh đưa lên miệng thì giật mình tỉnh dậy. Cơn mơ bị gián đoạn. Có tiếng lao xao nói chuyện của cán bộ Tri an ninh và mấy tên trật tự. Và tiếng lọc cọc mở cửa xà lim số 1 và số 2. “Sao lại mở cửa xà lim giờ này?” Tôi tự hỏi. Cơm chiều đã phát, tôi đã cho vào bụng lâu rồi. Tính đến hôm nay tôi đã nằm chịu sự đày đọa của Thân Yên (1), Lê Đồng Vũ (2) và đám cán bộ an ninh, trực trại được 16 ngày. Bao phủ bởi cái khí lạnh mùa đông của đồi núi miền trung, lại chỉ có trên người phong phanh một bộ đồ tù mỏng dính, tôi ngồi co ro tê cóng trên bệ đá. Sự thiếu nước lưu cữu (mỗi ngày chỉ được phát nước 2 lần, mỗi lần 2 muỗng canh nhỏ cùng với lúc phát cơm) đã làm môi tôi khô rát, cổ đắng ngắt; chợp mắt một tý là lại mơ uống nước mía Viễn Đông (3) hoặc ăn thạch chè Hiển Khánh (4). Mỗi bữa chỉ có 2 muỗng cơm nên hậu môn của tôi đã ngừng hoạt động được 15 ngày (ngày đầu tiên phải làm việc để tống khứ những thức ăn cũ có sẵn trong bụng.)

10/4/12

Các bạn A-20 thân quí,



A20 Vũ Ánh

Các bạn A-20 thân quí,

         Sau cuộc họp mặt lần đầu tiên ở Little Saigon, có một vài bạn tù của chúng ta ở các trại khác hỏi tôi như thế này: "Bộ các anh hãnh diện vì cái tên trại giam của bọn đỏ hay sau mà lấy cái tên A-20 đặt trước tên của các anh". Tôi biết những người bạn của chúng ta hơi "bảo hoàng hơn vua" cho nên hỏi cắc cớ như vậy. Nhưng tôi mạn phép các bạn A-20 trả lời như thế này:

11/3/12

Không Thể Tình Cờ



(gởi hiền thê P.T.)

Anh cứ trách cho lòng em dậy sóng
Cho nỗi buồn dừng lại giữa câu thơ
Dẫu hiếm hoi nhưng không thể tình cờ
Em chợt thấy đâu bến bờ thương nhớ

Dù sự thật đó là điều đáng sợ
Ðã cho em bao khốn khổ không cùng
Nhưng nếu đời là một mẫu số chung
Thì chắc lẽ mình cũng cùng số phận

Nên em đã không ngại ngùng chấp nhận
Xích xiềng kia thôi cũng chỉ tầm thường
Bởi anh là biểu tượng của quê hương
Là dáng đứng trên đường em bước đến

Là ánh sáng của muôn ngàn ngọn nến
Dìu em qua cùng với trái tim người
Với nụ cười của cha ông
Của từng giọt máu trên sông Bạch Ðằng.

Hướng Dương - A20 Vũ Đình Thụy
(A20 Phú Yên 12/1993)




22/1/12

CÂU CHUYỆN NGƯỜI TÙ TRƯƠNG MINH NGUYỆT



CÂU CHUYỆN MỘT NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT ÍT ĐƯỢC NGƯỜI ĐỜI BIẾT ĐẾN: CUỘC ĐỜI VÀ NHỮNG NĂM TÙ ĐÀY LAO LÝ CỦA KỸ SƯ TRƯƠNG MINH NGUYỆT
Quỳnh Trâm
Kính thưa quý vị,
Kính thưa quý thân hữu, quý chiến hữu cùng quý Niên trưởng,

Nói với thế hệ thứ ba để tiếp nối cuộc trường chinh tổ quốc


Đã nhiều lần ta tìm trong ký ức
Không thấy gì ngoài máu lửa thù căm
Không thấy gì ngoài hàng hàng lớp lớp
Bè bạn bỏ đời, rồi bè bạn đứng lên
Những ngọn cỏ xanh đã một lần đơm nụ
Đã tức tưởi miên trường, tức tưởi gãy ngang
Những ngọn cỏ xanh vùi rạn vào thân thể
Làm đá lót đường cho thế hệ thứ ba
Ôi ! chinh chiến đong đầy nước mắt

Phan Lạc Giang Đông


Về Ðà Nẵng Lần Cuối...



A20 Nguyễn Chí Thiệp

Sau hiệp định Paris 26 tháng 1, 1973, Hoa Kỳ hạn chế viện trợ cho Việt Nam Cộng Hoà. Sự sụp đỗ của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Tôi thường cọng tác ở các quân khu và các tỉnh nên thấy rõ điều này. Các cấp chỉ huy quân sự cao cấp thấy mình bị bó tay trong khi quân chính quy của Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập ào ạt qua đường Trường Sơn. Nhưng không ngờ được sự sụp đổ của miền Nam quá nhanh sau khi thất thủ Ban Mê Thuột và quyết định rút quân đoàn 2 ra khỏi Pleiku.

Bình-Tuy, Những ngày cuối cùng !


A20 Lê Phi Ô

(Hồi ký chiến trường)

Ngày 02 tháng 04 năm 1975, Tiểu-khu Bình-Tuy được TK/ Bình-Thuận thông báo: Đoàn người di tản từ các tỉnh miền Trung (sau cuộc lui binh của vùng II chiến-thuật) đang hỗn loạn tràn vào thị xã Phan Thiết, lẫn lộn trong đó có một số tù nhân trốn thoát, thành phần bất-hảo và cũng có thể việt cộng giả dạng lính QL/VNCH bắn, cướp phá gây sợ hãi cho đồng bào tị nạn cũng như dân chúng tại địa-phương và tiếp tục đi về hướng Bình Tuy. TK/BT tức khắc xin QĐ III tăng phái một đại-đội Quân-cảnh, đơn vị QC này làm nút chặn tại ngã ba 46 (ngã 3 vào Bình-Tuy từ Quốc lộ I. .

Tiểu đoàn 344/ĐP của Lê phi Ô chiếm giữ các cao điểm xung quanh để bảo vệ QC làm nhiệm vụ tước khí giới những quân-nhân thất lạc đơn vị và bất cứ ai có vũ-khí trong đoàn người di-tản, những đơn vị còn sĩ quan chỉ huy thì được giữ lại vũ khí và chờ lệnh Quân-Đoàn III, Tiểu đoàn 341/ĐP của Đ/U Lê Hùng phối hợp với Quân cảnh để ngăn ngừa cướp phá và được lệnh bắn hạ bất cứ ai có vũ-khí mà không tuân theo lệnh QC, vì thế chỉ trong 3 ngày với nhiều đoàn di tản vào Bình-Tuy ước độ gần 300 ngàn người nhưng rất trật tự tiến vào thị xã La-Gi (hoàn toàn có trật tự từ cửa ngỏ vào Bình-Tuy cho đến khi được xà lan di chuyển hết về Vũng Tàu, 10 ngày mới hoàn tất).

TÔI ĐÃ GẶP Ở ĐÂY


Sau khi bị đánh đập, cùm kẹp đến liệt hai chân và rối loạn cơ tròn, không kiểm soát được đường tiểu tiện và đại tiện, tôi nằm chờ chết trong xà lim. Nhờ sự can thiệp tận tình của hai bác sĩ tù Trần Quý Nhiếp và Trần Văn Lịch, cộng thêm đề nghị của một phái đoàn Thanh Tra Y Tế từ trung ương, tôi được chuyển vào một bệnh xá nhỏ ở Phân Trại B, nơi giam giữ tù hình sự. Tôi đã sống chung với đủ mọi loại tội phạm: giết người, trộm cướp, hiếp dâm, lừa đảo, xì ke ma tuý …v. v.

Tôi đến đây
trong một lần đi trốn
khi đang trong cuộc một trò chơi lớn
trò chơi đấu tranh
nhìn quanh
tôi thấy toàn thú dữ
mắt tròn xoe đổ lửa
uống máu ăn thịt lẫn nhau
trong khi bên ngoài những lớp rào
và những hào sâu
bầy quỷ sứ đứng canh
ngả nghiêng cười khoái trá