30/6/11

NGÀY THÁNG ĐÓ …



 NHIỀU LÚC ngồi nghĩ lẩm ca lẩm cẩm không chừng mà lại đúng để tự an ủi mình rằng có lẽ kiếp trước mình cũng là tay sát thủ “độc cước đại hiệp”chăng? Với cú đá sát thủ chắc chết nhiều người lắm nên kiếp này mới bị cùm chân gần bẩy năm trời mà lại cùm 2 chân nên kiếp trước chắc là mình đá song phi nên bây giờ bị cùm 2 chân banh ra, cứ nằm ngửa chờ chờ chứ không nằm nghiêng được. Lúc đó ngoài giấc mơ chiến thắng mình còn mơ ước nhỏ nhoi là được ngủ nghiêng một giấc, đơn giản thế thôi. Vậy mà giấc mơ đó 7 năm sau khi ra khỏi xà lim mới thành hiện thực …: “ Bẩy năm mơ giấc ngủ nghiêng, hết đêm lại sáng xích xiềng chân tay..! Ừ xích thì xích, xiềng thì xiềng có chết thằng Tây nào đâu mà sợ. Máu anh hùng lại nổi lên  thách thức ngạo nghễ:

              Chân cùm tay xích đầu sao xích,
                Xích sẽ có ngày xích phải tung ..!
                Tư tưởng tinh thần làm sao xích,
                              A ha .. A ha ..!
               Xích sẽ đến ngày xích phải tung ..!

20/6/11

Trại Trừng Giới, nơi đày ải nhiều chiến sĩ VNCH



Thanh Phong/Viễn Đông

WESTMINSTER - Sau ngày 30-4-1975 nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam dựng lên hàng ngàn trại tù rải rác khắp Nam, Trung, Bắc để giam giữ, đày ải các Quân, Dân, Cán, Chính VNCH. Một trong những trại tù khét tiếng nhất có tên gọi là Trại Trừng Giới A.20 nằm trong thung lũng Kỳ Lộ, Huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quân Lực 19-6-2011, hai chiến hữu Nhan Hữu Hậu (sĩ quan cấp Tá QL/VNCH) và chiến hữu Tống Phước Hiến (sĩ quan cấp Úy, Cảnh Sát Quốc Gia) đã đến tòa soạn nhật báo Viễn Đông để kể lại giai đoạn hai ông và các bạn tù A.20ø phải chịu đựng nhục hình như thế nào tại trại Trừng Giới A.20.

5/6/11

Khi Thơ Lên Tiếng



1.
Em hỏi tôi khi nào hạnh phúc?
biết trả lời sao khi chung quanh ô nhục?
biết nói sao khi những gì chân thực
đều nín thinh như tĩnh vật ngoan hiền
những tấm họa nào màu sắc đảo điên
những đoạn nhạc âm thanh nhạt thếch
người lương thiện trở nên ngờ nghệch
đứng bâng khuâng giữa cõi oán hờn

Người cầm bút
không cần biết thiệt hơn
Vũ khí chính là Thơ: lên tiếng
là việc làm biểu hiện
của vô vàn sắc mực đấu tranh

ÐK:

Ngọn bút thiêng vượt qua bao trở ngại
đồng hành cùng lịch sử yêu thương
Em yêu dấu ơi, từ khổ đau
Thơ Tôi Lên Tiếng
Thơ Chúng Ta Lên Tiếng:
Cứu Quê Hương!


2.
Em có thể yêu tôi
bởi vần điệu trong lành
bởi bề ngoài đỏm dáng
bởi kịch diễn
bởi những điều thế nhân nhàm chán
bởi ngôn từ ngọt lịm đường hương
nhưng em ơi
điều duy nhất phải hiểu nhau hơn
là bản chất
là tận cùng dưới đáy tim dũng cảm


Người cầm bút
đứng giữa vùng ánh sáng
viết nên hoa, nắng, trăng, sao
viết nên đời mới
gửi trao cho Dân Tộc con Người.


Phan Lạc Giang Ðông


3/6/11

Cô gái nhỏ hấp hối


Tặng cô gái nhỏ cả làng bỏ rơi
trong nạn đói Thanh Hóa 1988.

Cô gái nhỏ trơ trọi
trong căn nhà vắng tanh
gia đình đã đi hết
bỏ cô nằm một mình
Trong làng không chó sủa
chim chóc cũng chẳng về
dưới ao không tăm cá
im lặng thật thảm thê.
Làng cô cũng vắng ngắt
người người kéo nhau đi
để tìm ăn tìm sống
quê hương chẳng còn gì.
Trong cơn mê hoảng loạn
Cô rên rỉ van lơn
Ông Táo trong bếp lạnh
cho cô một bát cơm
trời hỡi trời hãy thương
cô bé đang hấp hối
hãy cho cô được thấy
mặt mẹ cô dịu dàng
để cô sẽ khỏi chết
làm ma đói lang thang.

DUY LAM
A20 Nguyễn Kim Tuấn


20/5/11

MÃN TÙ



A20 Nguyễn Liệu

Bảy cái Tết rồi. Tết nào cũng vậy, khoảng đưa ông Táo về trời là anh em xôn xao về tin sắp được tha. Tin tức thật phong phú. Nào năm nay về nhiều, vì chánh quyền đã mạnh rồi, nào về nhiều để ngoại giao với nước ngoài, nào về nhiều vì có Liên Hiệp Quốc can thiệp, có Mỹ can thiệp… Thậm chí còn biết con số mấy trăm người được ân xá …Từng nhóm, từng nhóm bàn tán xôn xao. Tuy biết tin xạo, tin vịt rất nhiều nhưng nghe cũng khoái, bởi vậy ai nấy đều đi hỏi, đi tìm tin tức. Tôi cũng ưng nghe những con vịt cồ đó nhưng thú thực, chưa bao giờ tôi nghĩ tôi được về. Tôi biết rất rõ tôi không bị giết là may rồi. Nhiều lần tôi nghĩ cộng sản xử bắn tôi cũng là điều công bằng, không có gì oan ức. Thế mà tôi còn sống, còn nhớ con nhớ vợ, còn nhìn những đêm trăng đẹp, còn thưởng thức những bình minh tươi thắm thì cộng sản nói riêng ở Quảng Ngãi là ân nhân của tôi rồi. Phải sòng phẳng, phải có lương tâm mà nói vậy. Thù là thù, hận là hận, ân là ân, oán là oán, đâu đó phân minh không lẫn lộn. Cho nên tôi không nôn nao mất ngủ rồi qua một cuộc thả về không có tên phải buồn chán nhiều ngày như anh em. Không hi vọng nên tôi không chờ đợi, không hồi họp và không thất vọng.Tôi dửng dưng. 

6/5/11

Mẫu Tự M



                                                                                                                 Ý Cơ

Dường như có một chút gì huyền bí, khó giải thích, khi mẫu tự M đã được nhiều dân tộc có ngôn ngữ khác nhau, dùng làm mẫu tự đầu tiên trong tiếng gọi Mẹ đầu đời, chỉ xin đơn cử, trong Anh ngữ, danh từ Mẹ là Mother, trong Pháp ngữ, danh từ Mẹ là Mère, trong danh từ Hán Việt là Mẫu thân .. .. và chắc chắn còn nhiều nữa, xin hẹn vào một dịp khác, Ý Cơ sẽ tra tìm thêm, để làm một thống kê gởi đến quý vị.

Nói đến tình Mẹ cho con, tình cảm thiêng liêng và vô tận đó, đã làm rung động tâm hồn biết bao nhà văn, nhà thơ đã cho ta biết bao áng văn tuyệt diệu, biết bao nhạc sĩ đã cho ta những khúc nhạc êm đềm, tha thiết như tình Mẹ, cũng không thể quên các họa sĩ, điêu khác gia, hay nhiếp ảnh gia, đã cống hiến cho đời những danh tác, ca ngợi tình thương yêu của Mẹ cho con.

Chỉ với một hình ảnh Mẹ ngồi cho con bú, mớm cơm cho con, khi con mới lọt lòng, đã là đề tài cho biết bao tác phẩm trong mọi lãnh vực văn chương, nghệ thuật.

Có phải chăng, tình cảm đầu đời mà ta được đón nhận, ngay khi, ta chỉ là một vật thể nhỏ nhoi trong bụng Mẹ, là tình yêu thương Mẹ giành cho ta. Mẹ yêu thương, đùm bọc, che chở không điều kiện, không mong cầu ta đáp trả công ơn, tình thương yêu này đã ban cho ta đến tận hơi thở cuối cùng đời Mẹ.

Khi biết có ta trong đời, dù mới chỉ là một dấu báo, Mẹ Cha đã mừng vui khôn xiết, dù Mẹ cũng biết rằng những ngày sắp tới, khi cưu mang ta, Mẹ sẽ có những đổi thay về sinh lý trong cuộc sống thường nhật, Mẹ sẽ khó ngủ hơn, Mẹ sẽ bị khó chịu, thậm chí bị hành hạ thân xác, khi có một hương vị dị ứng, dù đã quen như cơm canh, sẽ có nhiều dị ứng, hành thân xác Mẹ, khi cưu mang ta trong bụng. Nhưng, ăn không được Mẹ cũng phải ăn, ngủ không được Mẹ cũng phải cố dỗ giấc, chỉ vì ta, phải, chỉ vì ta, Mẹ lo lắng trăm bề, có lẽ, hơn lúc nào hết, từ ngày có ta , Mẹ phải tự chăm lo sức khỏe, vì Mẹ biết, chính Mẹ, và chỉ có Mẹ, là nguồn dưỡng nuôi duy nhất cho vật thể nhỏ nhoi này.

Không chỉ có thế, Mẹ đã phải lo toan mọi điều vì ta, ngay cả khi đi đứng, nằm ngồi, Mẹ phải cẩn thận từng cử chỉ, từng động tác, chỉ để  mong cầu cho ta được êm ấm trong lòng Mẹ, rồi nữa, cũng tùy khả năng, Mẹ toan tính mua sắm những gì cần thiết cho ta, khi ta chào đời, ngày đó, ngày mà Mẹ Cha  mừng vui đón ta vào đời, cũng là ngày Mẹ phải chịu nhiều đớn đau và hiểm nguy. Để có ta trong đời, Mẹ đã phải chịu những cơn đau banh da xẻ thịt hàng giờ, có khi cả ngày trời, cơn đau tưởng như không sao chịu nổi, nhưng Mẹ, chỉ có Mẹ mới chịu nổi, vì ta, để ta chào đời được vuông tròn.

Dường như cơn đau chưa dứt, mắt Mẹ đã nhòa lệ, không phải vì cơn đau còn hành Mẹ, Mẹ đã quên đau rồi, Mẹ nhỏ lệ mừng vui vì có ta, trên môi Mẹ đã nở nụ cười đẹp nhất và hiền từ nhất trong đời Mẹ. Khi thấy ta trong hiện thực, Mẹ đã quên đau, quên mệt, để Mẹ có thể ẵm bồng, để Mẹ có thể nâng nưu chiều chuộng và để Mẹ có thể trao tặng cho ta tình thương yêu vô bờ bến.

Từ đây, tình yêu thương của Mẹ ban cho ta, đã theo ta từng bước trong đời. Mẹ giắt tay ta ngày đầu đến trường, Mẹ nắm tay ta, giúp ta tập viết những nét chữ đầu tiên, để tạo dựng những tri thức cho mai sau, từ khi ta còn thơ ấu.

Mai này lớn khôn, Mẹ luôn là người mừng vui trước nhất, về những thành công của ta, và Mẹ cũng là người đầu tiên đến bên an ủi khi ta gặp những khó khăn hay thất bại trong đời. Mẹ không chỉ quan tâm đến những chuyện lớn lao như thế, mà Mẹ còn cảm thấy sót sa khi ta bị nắng mưa giữa đường, Mẹ lo âu khi trời đã về đêm mà ta chưa về đến nhà.. .. Mẹ lo nhiều lắm, đứng ngồi chẳng yên, vì Mẹ luôn nghĩ rằng, ta chỉ được bình yên khi ở bên Mẹ, để Mẹ che chở mọi bề gió lạnh cho ta.

Tình thương yêu chăm sóc vẫn không ngưng ở đấy, ngay cả khi ta đã xây dựng cho riêng mình một mái ấm gia đình. Mẹ đã mừng vui sắm sửa mọi thứ thích ứng cho ta trong ngày vui, Mẹ mừng cho hạnh phúc ta, nhưng Mẹ vẫn là người đầu tiên nhỏ lệ khi hạnh phúc ta không bền.

Mẹ vui vì ta, Mẹ buồn vì ta, Mẹ chịu mọi khó khăn cơ cực vì ta, tất cả những trạng huống tình cảm đó, đều phát xuất từ tình Mẹ cho con.

Những ngày còn ở quê nhà, ta không có ngày riêng biệt để nhớ ơn Mẹ như ngày Mother’s day, nhưng chữ hiếu luôn là một nét lớn trong đời mỗi chúng ta.

Dù không có một ngày riêng biệt, nhưng, những khi giỗ tết, ta đã chúc thọ Mẹ Cha, hay nhắc nhở công ơn sinh dưỡng của Mẹ, khi thắp ba nén hương thơm trước ban thờ, ta đứng đó, trước di ảnh của Mẹ để nhớ về Mẹ ngày xưa, và hầu như chúng ta luôn có lời cầu xin Mẹ linh thiêng phò hộ, ban phước cho con cháu. Thế đó, ngay cả khi Mẹ đã quá vãng, ta vẫn mong cầu một sự che chở từ Mẹ, Mẹ đã ra đi, nhưng tình yêu thương của Mẹ vẫn còn đọng mãi trong lòng ta, lời cầu xin ấy, hẳn đã không phát xuất từ sự yếu đuối của tâm hồn, ta đã cầu xin Mẹ chăm sóc cho ta từ tấm bé, vì ta, chính ta, là một phần thân xác của Mẹ đang còn lưu lại trên thế gian này.

Những gì tôi viết được ra đây về tình Mẹ, chính là những ước mong của đời tôi, và cũng chính vì tôi đã là Mẹ.

Phưóc hạnh thay cho những ai còn Mẹ, để được Mẹ chăm lo từ tấm bé, và cũng hạnh phúc biết bao cho những ai đang còn Mẹ để được tròn đời hiếu thảo.

Nhưng những phước hạnh ấy, quá xa vời với tôi, nếu có thể vượt thời gian để trở về thời sơ sinh bên Mẹ, tôi sẽ chấp nhận mọi gian khổ đánh đổi lấy cuộc hành trình về bên Mẹ. Mẹ tôi không còn nữa, khi tôi tròn hai tuổi, những bước đi đầu đời, tôi không nắm bắt được tay Mẹ, để làm sao một đứa trẻ mới chập chững biết đi như tôi lúc đó, có thể lưu giữ được hình ảnh Mẹ trong tâm tưởng, để từ đó có thể hình thành những ý niệm về Mẹ. Không, tôi không hề có được ý niệm gì về Mẹ tôi, thay vào đó, tôi được chăm sóc bởi tình yêu thương của Bà Nội, của Cha tôi và của một người chị mới mười tuổi và một người anh tám tuổi.

 Được sáu tuổi, đứng xa, nhìn bà kế mẫu, ẵm bồng, chăm sóc những đứa em cùng cha khác Mẹ, tôi bắt đầu thèm có Mẹ. Tôi bắt đầu ý thức từ đó, tôi thường tự hỏi, tại sao tôi phải mong mỏi, thèm khát những điều mà ai trên đời này cũng có, trừ tôi, từ đó tôi  thấy mình bơ vơ, lạc lõng , lặng lẽ nhìn ngắm những gì minh thèm muốn trong tình Mẹ, không có được, tôi đành câm nín trong bơ vơ.

Bạn bè tôi, cùng trang lứa, được hưởng trọng vẹn tình yêu thương của Mẹ, được Mẹ chăm lo đủ điều. Tôi thèm khát, tôi tủi thân, và, nỗi thèm khát đó, tủi thân đó, vẫn đeo đuổi tôi đến tận bây giờ, khi tôi đã gần kề tuổi sáu mươi, và có lẽ sẽ còn theo tôi đến tận cuối đời.

 Đến ngày giỗ Mẹ tôi, nhìn di ảnh của Bà trên bàn thờ, như có chút gì xa lạ, dù đã được biết người trong di ảnh là Mẹ tôi. Bây giờ, sau nhiều năm giỗ Mẹ, tôi đã thân quen với hình ảnh Mẹ tôi, nhưng vẫn không bù đắp  được những gì tôi thèm khát, ngay cả ước mơ được chăm sóc cho Mẹ, tôi cũng không có được.

Có một hình ảnh mãi theo tôi trong nhiều năm qua, một lần, vào tiệm phở, nhìn sang bàn bên cạnh, tôi thấy, một chị bằng tuổi tôi, ngồi ăn cùng với Mẹ, tóc cụ đã bạc phơ, người không khoẻ lắm, khi hai tô phở được đem ra, chị đã gắp những miếng thịt trong tô của Mẹ, bỏ sang tô của mình, có lẽ cụ không ăn được, rồi chị đã dùng đủa xắn những sợi bánh phở cho ngắn lại để cụ dễ ăn hơn, chị ngồi nhìn cụ ăn, xem chừng nếu thấy khó, chị sẽ giúp cụ, nhưng cụ ăn uống khá dễ dàng, thấy thế, chị mới bắt đầu ăn tô phở của mình, nhưng vừa ăn chị vừa chăm sóc cho cụ.
Chị đã được chăm sóc Mẹ, như ngày xưa Mẹ đã chăm sóc cho chị như thế.

Nhìn hình ảnh ấy rồi, tôi không ăn nổi tô phở của mình, tôi đã khóc và thèm cho mình những giây phút đầm ấm như thế, quý chị sẽ cho tôi là người quá nhậy cảm, nhưng đó là sự thật của sự thèm khát tình mẫu tử, một người, mồ côi Mẹ quá sớm như tôi, nhìn những hình ảnh tự nhiên, bình thường đối với bao người chung quanh, nhưng tôi đã thèm khát biết bao năm nay, để cho đến cuối đời, tôi biết mình vẫn còn thèm khát như thế.

Tôi lập gia đình năm 21 tuổi, ngày tôi vu quy, Cha tôi đã rơi nước mắt, khi lạy bàn thờ có hình Mẹ tôi, bức hình Mẹ tôi chụp năm 24 tuổi, Cha tôi đã yêu thương và chăm sóc cưng chiều tôi đủ điều, nhưng Ông biết, Ông không thể bù đắp cho tôi về sự thiếu vắng bóng hình Mẹ tôi trong đời này.

Trong đời sống gia đình, có lúc buồn giận, tôi hỏi chồng tôi qua nước mắt, rằng, có phải anh đã đàn áp tôi vì tôi mồ côi Mẹ. Tôi biết chồng tôi không như thế, nhưng khi cảm nhận nỗi bơ vơ ta thường về ẩn trú trong lòng Mẹ.

Thưa quý chị, tôi đã làm mẹ 32 năm, các cháu đã khôn lớn và đã thành gia thất, tôi được hưởng trọn vẹn tình yêu thương của các cháu. Trong ngày Mother’s Day và ngày sinh nhật tôi luôn được nhận những niềm vui mang đến từ các cháu, đó là khi tôi làm mẹ.

Nhưng tôi đã không được thể hiện tình tôi giành cho Mẹ, thật đau khổ và tủi thân vô cùng, vì tôi không được như quý chị, tôi chưa bao giờ được mua một đồng quà cho Mẹ, nói gì đến việc đưa Mẹ đi ăn những món Mẹ thích, làm sao sắp được những chuyến đi chơi cho Mẹ .

Tôi không biết được mầu tóc của Mẹ tôi, thì làm sao nhớ được mùi hương tóc của Bà. Sau những ngày mang nặng đẻ đau, Mẹ tôi chỉ được ẵm bồng tôi, hát ru tôi ngủ được một năm thì Bà qua đời, biến cố ấy, không chỉ tội nghiệp cho riêng tôi như hiện nay, mà phải hiểu là đã tội nghiệp cho cả hai Mẹ con tôi.

Các chị thân mến, hãy nâng đỡ thân thể Mẹ càng ngày càng già yếu, hãy nhớ lại những ngày dài Mẹ cực nhọc, Mẹ đã trải qua khi nuôi nấng ta, nay là lúc ta phải đảy xa cho Mẹ những ưu phiền lo lắng, và đem về cho Mẹ những thanh nhàn êm ấm lúc tuổi già.

 Tôi xin chúc phúc cho những ai đang còn Mẹ để tôi được gởi tặng những bông hồng đỏ thắm.

  Riêng tôi, xin nhận đóa hồng trắng từ thơ ấu đến tận cuối đời ./.

Ý Cơ
(A20 Vũ Trọng Khải phu nhân)




KỶ NIỆM NỔI TRÔI CÙNG TRÍ NHỚ


                                                                                      Tống Phước Hiến
 

          Tôi là một trong những người trai sinh và lớn lên giữa thời tao loạn. Lý tưởng dâng cao theo những bài sử bi hùng oanh liệt, bất khuất. Hồn quê và hồn người hòa nhập nên cũng lãng mạn và cũng ngây thơ trong sáng. Tôi không nhớ ai đó đã vẽ chân dung chúng tôi:

                   Cứ cộng năm thằng đủ chẵn trăm,
                   Những thằng mười tám tới hai lăm
                   Bán trời không chứng, thiên lôi đả
                  Trời rủa cho rằng lũ chết băm !

          Đêm đêm bên ngọn đèn dầu tù mù, lâu lâu những tiếng đại bác từ xa xa vọng lại, chúng tôi ngừng học. Những suy tư vây quanh ý sống! Giòng sống đưa chúng tôi dần xa tuổi ngọc. Rồi áo trận thay áo trắng thư sinh. Và rồi, tiếng súng không còn xa xa vọng lại mà ngay sát cạnh cuộc đời. Lâu lắm và may lắm vài thằng bạn ngày xưa bất ngờ được gặp. Và cũng ai đó nói giùm tâm tư kẻ tha phương giữa đêm trừ tịch nơi chúng tôi phải ngăn quân thù trên từng thước đất quê hương:

MÀU TANG THÁNG TƯ


Mười tám tuổi, em sắp vào đại học,
Màu môi tươi, em vờn vẽ tương lai.
Hồn trinh trắng, gom thu vào mắt biếc,
Làn da tươi, rực rỡ nét trang đài.

Suối tóc đen chảy dài, ai mơ ước,
Bờ vai nghiêng, lụa trắng ngạt ngào hương.
Gót sen thắm tươi má hồng chớm nụ,
Gợi lòng ai dào dạt những tơ vương.

Tôi là một trong giòng người say nắng,
Thẫn thờ nhìn em, mơ ước xa xôi.   
Cũng có lúc hồn nương theo gió lộng,
Sợ đông sang thiếu nắng, lạnh bờ môi.
Hàng phượng đỏ sân trường em còn thắm,
Nơi em về mơ ước chuyện ngày mai
Tôi để lại nơi đây vài luyến tiếc,
Rời sách đèn gươm súng nặng đôi vai.

Ðã bao lần lòng bâng khuâng tự hỏi,
Ðường tôi đi sẽ dẫn lối về đâu ?
Và tại sao những oan khiên bi lụy
Giăng mắc oán hờn, tơi tả thương đau.

Rồi tôi hiểu, tại sao tôi phải bước,
Trên hoang tàn, trên nghiệt ngã chiến tranh.
Tôi phải giữ mắt nai màu trinh trắng,
Cho môi em hồng, cho tóc em xanh.

Tôi phải ngăn sóng hung tàn hiểm ác,
Ðể gian ngoa, để thù hận tiêu tan.
Tôi phải bước vào đạn bom ác liệt,
Cho chân em êm lối mộng thênh thang.

Rồi tháng Tư, Quê hương mình tang tóc,
Súng gãy, tan hàng, phòng tuyến đổ ngang.
Giặc hung bạo tràn về Nam sát hại,
Ngùn ngụt lửa thù, sông núi hoang mang.

Ôi em đó, máu tràn loang áo trắng,
Vĩnh biệt đời không kịp tiếng chia ly.
Nguồn ước mơ còn tràn trong mắt lệ,
Tôi ngậm ngùi, máu đọng ướt bờ bờ mi!

Thời gian đã qua lâu rồi em nhỉ,
Thịt xương em thành Ðất Tổ, đường Quê.
Tôi vẫn nặng nỗi hờn đau vong Quốc,
Lòng xót xa theo mỗi độ xuân về.

Tôi còn nguyên ước mơ thời trai trẻ,
Góp sức mình cho Quê Mẹ hồi sinh.
Cho tôi được cùng Em ôn kỷ-niệm,
Chờ Non Sông rạng rỡ ánh bình-minh

Tống Phước Hiến



30/4/11

Ðòi nhân quyền giữa thành phố cộng sản





Kỷ niệm ngày đọc Tuyên ngôn Nhân quyền ở Sài Gòn năm 1977

Nguyên Huy/Người Việt
 Sunday, April 17, 2011

WESTMINSTER (NV) - Năm 1977, giữa lúc chế độ cộng sản đang cai trị gay gắt và hàng triệu người làm việc cho chế độ VNCH đang bị cầm tù, một nhóm luật sư can đảm cần loa đọc bản “Tuyên ngôn Nhân quyền của những người Việt Nam khốn cùng” giữa Sài Gòn.
Khi đó là ngày 23 tháng 4 năm 1977. Ðịa điểm lúc đó là phía trước nhà thờ Ðức Bà.
Tối Thứ Sáu, tại Westminster, gần 50 thành viên của Ủy Ban Nhân Quyền VN tổ chức kỷ niệm ngày Tuyên Bố Nhân Quyền Việt Nam này. Tổ chức buổi kỷ niệm này là các Luật Sư Trần Danh SanTriệu Bá Thiệp, những người 34 năm trước đã khẳng khái, can đảm gióng lên tiếng nói đòi hỏi nhân quyền cho người VN.

29/4/11

GIỌT NƯỚC MẮT CHO QUÊ-HƯƠNG

                    

        A20 Tống Phước Hiến
                                                                                                 

.                                                                            
            .. Ðến bao-giờ lấy lại được Giang-san!
                                                                                     Chế-độ nầy trâu ngựa sống không an,
                                                                                      Sài-lang đã dựng xong nền thống-trị.
                                                                                       Ai đứng dậy diệt trừ lũ quỷ ?
                                                                                       Ai trái tim lân-mẫn vạn dân tàn.
                                                                                       Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan,
                                                                                       Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn.
                                                                                                                      Nguyễn-Chí-Thiện.

                                                                                                     
          Việt Nam Quốc Dân Ðảng thực sự đi vào đời sống tình cảm, ý chí thuở tôi còn mài miệt sách vở học trò. Khởi đầu bằng bài trần thuyết về Việt Nam Quốc Dân Đảng mà cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự trở về lòng đất Việt của mười ba vị tuấn-kiệt là trọng tâm. Ôi đất-nước oai linh từ buổi hồng hoang đã được bảo vệ và thắm đượm bởi vô vàn mồ hôi, trí tuệ và máu lệ của hàng hàng lớp lớp Tiền nhân hiệt kiệt và chiến sĩ anh hùng vô danh trải dài nối tiếp hy sinh, đấu tranh không ngưng nghỉ ! Giọt nước mắt thán phục, giọt nước mắt cảm kích thân phận quê hương. Giọt nước mắt kiêu hãnh giống giòng oanh liệt từ thời niên thiếu ấy thấm loang trên giấy trắng học trò. Chính giọt nước mắt nầy đã dẫn dắt tôi đến với bạn bè cùng trang lứa đối mặt với quân thù.

          Thế hệ chúng tôi phải đương đầu với lắm kẻ thù. Chúng tôi phải quyết liệt đấu tranh để thắng cái bản ngã thấp hèn  tự tại trong mỗi cá-nhân của kiếp người; phải chấp-nhận thua thiệt mới giữ vững ý thức và trận tuyến.


SAIGON TRONG CƠN HẤP HỐI 30-4-1975


Nhân ngày 30-04,  Quán Lá xin được trân trọng gởi đến gia đình A20 và bè bạn năm châu những ghi nhận chính xác của một A20, người chứng kiến ngày lâm tử của Sài-Gòn nói riêng và giờ kết thúc quyền hành trên miền Nam Việt-Nam của chính phủ VNCH.
Hàng tỷ những bài vở, phỏng vấn tràn ngập trong thế giới thông tin từ 36 năm qua, đã vì vô tình hay cố ý bóp méo lịch sử. Hôm nay A20 Nhan Hữu Hậu, người có mặt tại dinh Độc Lập cho đến 17g chiều ngày 02-05-1975 đã mở trang sử cũ cho chúng ta nhìn một sự thật mà từ lâu chưa ai làm sáng tỏ.
 "Sài-Gòn giờ lâm tử"



SAIGON TRONG CƠN HẤP HỐI 30-4-1975

Nhan Hữu Hậu
(Cựu tù cải tạo trại A-20)

Đã 36 năm qua, hình ảnh Saigon trong cơn hấp hối vẫn còn rõ nét trong ký ức tôi. Giờ đây tôi muốn ghi lại những điều tôi biết, tôi thấy và tôi đã làm chỉ để đóng góp một vài sự kiện trong những giờ phút sau cùng của chế độ dưới cái nhìn trong cương vị một sĩ quan cận vệ của Thủ Tướng Chánh Phủ VNCH.

Chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, tại Dinh Độc Lập, một buổi lễ bàn giao trong đó Tổng Thống Trần Văn Hương, người kế nhiệm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vừa từ nhiệm, trao quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh, người duy nhất mà Hà Nội bằng lòng thương thuyết. Chủ tịch Thượng Viện được mời làm Phó Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu được mời thành lập nội các. Buổi lễ trình diện tân nội các được dự định vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tuy nhiên, có những biến chuyển khiến chuyện này đã không thể xảy ra. Sáng sớm ngày 30 tháng 4 năm 1975, tại Phủ Thủ Tướng tọa lạc tại số 7 đường Thống Nhất, diễn ra một buổi họp gồm có Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo, cùng một số nghị sĩ, dân biểu, các nhân sĩ có chân trong tân nội các họp với cựu tướng Pháp Vanuxem, đặc phái viên của Tổng Thống nước Cộng Hòa Pháp. Phía bên ngoài phòng khách, tôi còn nhận thấy sự hiện diện đặc biệt của cựu Thủ Tướng chánh phủ lâm thời Nguyễn Ngọc Thơ (tháng 11/1963), Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, cựu Tư Lệnh LLĐB/VNCH và một số người tháp tùng ông đang trông chờ kết quả cuộc họp bên trong với tâm trạng lo âu, buồn bã. Độ một giờ sau, cựu tướng Vanuxem ra về để lại trên gương mặt mọi người sự thất vọng và lo sợ.

Sau đó Sở Truyền Tin Phủ Thủ Tướng được lệnh lên phòng của Thủ Tướng Mẫu để thu băng một bản hiệu triệu của Tổng Thống Dương Văn Minh. Lời kêu gọi của Tổng Thống Dương Văn Minh được một phóng viên và một kỹ thuật viên âm thanh của Đài Phát Thanh Quốc Gia đưa về đài và cho phát vào lúc 10 giờ sáng và chỉ phát được một lần. Sau đó khi Tổng Thống Dương Văn Minh được phía chiến thắng giải giao về Đài Phát Thanh Quốc Gia thì ông lại bị đẩy vào phòng vi âm thu cuốn băng thứ hai. Cuốn bằng này được phát nhiều lần, trong đó Tổng Thống Dương Văn Minh phải kêu gọi lực lượng còn lại của VNCH buông súng đầu hàng vô điều kiện.

Sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh thu băng tại phòng làm việc của Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu xong, ông cùng các vị trong nội các chưa được tấn phong chuẩn bị qua Dinh Độc Lập, có thể là sẵn sàng để chuyển giao quyền hành? Tại phòng khách trên lầu 2 của Dinh Độc Lập, tôi thấy có giáo sư Bùi Tường Huân, các nghị sĩ Vũ Văn Mẫu (Thủ Tướng), Thái Lăng Nghiêm (Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng), Dân Biểu Lý Quí Chung (Bộ Trưởng Thông Tin) và một số người khác. Trong khi ấy, tại phòng làm việc của Tổng Thống Dương Văn Minh có mặt chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QL/VNCH và tôi (Nhan Hữu Hậu). Đại tá Vũ Quang Chiêm Chánh Võ Phòng Tổng Thống, Đại tá Lê Thuần Trí Chánh Sở Quân Vụ, Trung tá Võ Ngọc Lân Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn An Ninh Danh Dự thì ngồi trong phòng làm việc của Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống.

Đại Tướng Minh làm việc một mình trong phòng và không có Chánh Văn Phòng Trương Minh Đẩu cũng như Sĩ Quan Tùy Viên Hoa Hải Đường thường nhật luôn làm việc bên cạnh ông. Thấy vậy, tôi bước đến nghiêm chỉnh và trình:

- Thưa Tổng Thống cần gọi đâu, xin Tổng Thống chỉ thị.

- Em gọi cho qua Thượng Tọa Trí Quang.

Tiếp nhận tờ giấy rời với các số điện thoại chi chít trên tay Tổng Thống Dương văn Minh, tôi gọi Thượng Tọa. Chuông reo một lúc nhưng đầu giây bên kia không có người trả lời. Bên cạnh, một máy điện thoại khác reo, tôi nhắc ống nghe. Từ đầu giây bên kia có giọng nói:
-  Tôi là Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng lực lượng phòng thủ còn lại tại Tổng Tham Mưu, cho tôi nói chuyện với Đại Tướng Minh.

Tôi bảo Thiếu Tá Tài chờ tôi trình Tổng Thống. Áp ống liên hợp vào tai, Tổng Thống Dương Văn Minh nói: “Qua nghe đây em”.

- Thưa Đại Tướng, tôi còn quân mà sao Đại Tướng đầu hàng?

- Đã trễ rồi em. Tôi muốn tránh cho dân khỏi chết chóc và Saigon khỏi thành bình địa. Mình phải cứu dân trước đã !

Nghe đến đây, tôi bước ra ngoài trong lúc Tổng Thống Dương Văn Minh đang còn tranh luận với Thiếu Tá Tài vì sao mà ông phải trao chính quyền cho Cộng Sản.


Bước dọc hành lang trên lầu nhìn ra tiền đình Dinh Độc Lập, nhìn thấy hai cánh cổng sắt phía trước đã rộng mở, vũ khí đủ loại và chiến xa của lực lượng phòng thủ Dinh đã được chất thành đống trước bồn nước theo lệnh của vị Tổng Thư Lệnh sau cùng của VNCH. Độ một giờ sau, chiếc GMC chở đầy quân trong các bộ quân phục ngụy trang lẫn lộn, bên thành xe có treo một miếng vải trắng được cột trên cao chạy vào đậu bên trong cánh phải của Dinh, trong tay họ vẫn còn vũ khí cá nhân. Họ chỉa súng vào khoảng không vừa bắn vừa la khóc trong uất hận, rồi xuống xe cởi bỏ áo trận, vất súng ngổn ngang sau đó tự động tan hàng.

Khoảng 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4, xe tăng Cộng Sản tiến vào Dinh Độc Lập mà không gặp một sức kháng cự nào, vì cổng chánh đã được mở rộng từ trước. (Chú thích của tác giả: Sau giờ phút này, Cộng Sản đã lợi dụng đêm tối, ngụy tạo cho đóng 2 cổng này lại, ủi sập rồi tuyên truyền đây là hang ổ cuối cùng của ngụy quyền đã bị thanh toán). Kể từ lúc này, tôi không thấy 2 vị Đại Tá Vũ Quang Chiêm và Lê Thuần Trí ở bên cạnh Đại Tướng Minh nữa.

Từ hành lang lầu 2, phía ngoài phòng khách chỉ còn lại Tổng Thống Dương Văn Minh và Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh (vẫn mặc quân phục). Trung tá Võ Ngọc Lân và tôi đứng chờ đợi chuyện kế tiếp diễn ra. Một cán binh mặc áo thun trắng chạy lên lầu hỏi trỏng: “Thằng Minh đâu rồi?”. Hắn hỏi như vậy 3 lần, nhưng Tổng Thống Minh chỉ chắp tay sau đít đi tới đi lui mà không trả lời. Tôi chỉ vào ông và nói với hắn: “Tổng Thống Minh đây nè”. Tên cán binh ngó qua xong rồi chỉ tướng Nguyễn Hữu Hạnh bảo cởi quấn phục ra. Tôi lấy chiếc chemise của tôi trao cho ông mặc tạm.

Như đã nói ở trên, chúng tôi và một phần nội các chưa tấn phong bị gom lại ngồi trong phòng khách có vệ binh canh giữ bên ngoài, ngoại trừ Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền đã về nhà bằng phương tiện riêng trước khi xe tăng Cộng Sản tiến vào Dinh. Phần còn lại của nội các và quân, cán, chính phục vụ trong Dinh Độc Lập lúc đó bị giữ ở đâu đó tôi không được rõ, vì không nằm trong tầm mắt của tôi.

Điều đáng lưu ý là nhóm dân biểu đối lập trước đây thường tự xưng là thành phần thứ ba do Dân Biểu Lý Quí Chung đại diện. Ông Chung đã đến trước tên cán binh Cộng Sản tự giới thiệu mình là thành phần thứ ba trong chánh phủ Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, nhưng tên cán binh hét lên: “Không có thành phần nào hết, ngồi lại kia”.

Vì chưa được tiếp xúc với đại diện phía bên kia, nên Tổng Thống Dương Văn Minh và chúng tôi vẫn ngồi trong phòng khác dưới sự canh gác chặt chẽ các cán binh Cộng Sản phía bên ngoài. Trời đã xế chiều, bỗng có nhiều tiếng súng nổ từ trong Dinh Độc Lập, chúng tôi được di chuyển xuống tầng hầm, nơi có đặt máy truyền tin để sử dụng khi có biến cố xảy ra, cạnh đấy là phòng dùng làm xạ trường để các cận vệ thực tập tác xạ và một nhà kho dự trữ lương thực phòng khi có biến động. Chúng tôi được đưa lên phòng khách trở lại trên lầu 2 và một cán binh xoa tay giải thích: “Nhân dân vui quá nên đốt pháo ăn mừng?”.

Sau đó, một phái đoàn Cộng Sản khoảng sáu bẩy người ăn mặc thường phục và quân phục lẫn lộn không đeo quân hàm tiến vào phòng khách. Một người mặc thường phục tự giới thiệu với Tổng Thống Minh là kỹ sư Tô Văn Ký, đại diện Thành Ủy đến tiếp xúc và nói vài lời trấn an. Trước khi rời khỏi phòng, ông ta trao cho Đại Tướng Minh hai gói thuốc lá Điện Biên và hai bánh lương khô Trung Quốc. Ông nhận và giao lại cho tôi giữ. Lúc này sự đi lại của chúng tôi bị kiểm soát rất chặt chẽ, ra vào phải có sự chấp thuận của các cán binh canh gác bên ngoài. Đến tối, chúng tôi được phát mỗi người một ổ bánh mì ngọt ăn với đường thẻ. Riêng Đại Tướng Minh được người nhà gởi vào một nồi cơm chiên và một trái dưa hấu. Ông chia sẻ và yêu cầu mọi người ăn chung.

Trong suốt ngày 1 tháng 5 từ sáng đến tối, không có một cuộc tiếp xúc nào hoặc thăm hỏi của phía bên kia, thỉnh thoảng có một nhóm người đi qua ngó vào phòng khách rồi lại đi.

Ngày 2 tháng 5 đến gần trưa, một phái đoàn báo chí Miền Bắc trong đó có cả các hãng truyền thanh truyền hình thuộc khối Cộng Sản Đông Âu vào trong Dinh và họ được nói chuyện với Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo đầu tiên. Các phóng viên bấm máy lia lịa, nhưng đến khi họ hỏi chuyện thì ông khoát tay: “Mấy anh tắt máy thu băng đi, đây chỉ là một cuộc nói chuyện bình thường chứ không phải là cuộc phỏng vấn. Hòa hợp hòa giải gì các anh. Hòa hợp hòa giải gì mà hai ngày nay không cho người ta súc miệng rửa mặt?”. Sau đó báo chí  truyền thông (tất nhiên là của nhà nước Cộng Sản) bắt đầu dàn cảnh quay phim chụp hình. Chúng tôi được đi rửa mặt chải đầu và sửa soạn quần áo cho ngay ngắn, rồi ngồi vào ghế chụp hình quay phim với lệnh mọi người phải tươi cười để họ hoàn thanh cuốn pim thời sự !!!

Khoảng 5 giờ chiều, tôi và một số người mà Cộng Sản cho là không quan trọng được phát mỗi người một tờ giấy đánh máy nhỏ nói là được trả tự do. Nhìn vào tờ giấy, tôi thấy người ký tên là Đại Tá Vương Thế Hiệp, chánh văn phòng của tướng VC Trần Văn Trà. Trước khi rời khỏi nơi này, tôi đến chào từ giã Đại Tướng Dương Văn Minh, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu và Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo. Tôi hỏi ông Hảo có nhắn gì về cho gia đình không, ông chỉ nói: “Em ghé nhà nói với chị là anh vẫn bình yên, kế đó nhờ em ghé nhà báo cho cụ Hương biết là vâng lệnh ông cụ anh đã giữ số vàng còn lại không cho chở ra nước ngoài”.

Rời khỏi Dinh, trước tiên tôi đến nhà Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo báo tin cho gia đình biết nơi ông bị giam giữ, rồi sau mới đến nhà Cụ Trần Văn Hương, ngôi biệt thự cũ kỹ nằm khuất trong hẻm 216A Phan Thanh Giản và nói lại những gì Tiến Sĩ Hảo nhờ trình cho cụ hay. Nghe xong, cựu Tổng Thống Trần Văn Hương thở một hơi dài nói: “Mấy hôm nay, qua lo quá, đã dặn em Hảo rồi mà không biết nó có làm kịp không. Qua có gọi cho Hảo nhiều lần, nhưng đường dây bị cắt. Qua có nói với nó: ráng giữ số vàng này, đừng cho mang đi, nếu còn kịp thì mua thêm vũ khí đạn dược tiếp tục chiến đấu, còn như không kịp thì số vàng này của người Việt Nam, hãy để lại cho người Việt Nam sử dụng”.

Nhưng hỡi ơi, tình thế đã đổi thay, vận nước đến hồi đen tối, Miền Nam Việt Nam đã lọt vào tay Cộng Sản. Là một quân nhân nhiều năm phục vụ quân đội và phục vụ chính phủ, tôi chỉ biết tuân hành lệnh thượng cấp trong những giờ phút sau cùng và tôi rất hãnh diện khi thi hành xong thượng lệnh và nhiệm vụ. Tôi thiển nghĩ công luận về công hay tội, xin hãy để cho đời sau phê phán.

A20 Nhan Hữu Hậu
Tháng tư 2011


GHI CHÉP THÊM:

Sáng ngày 8 tháng 4 năm 1975, phi công Nguyễn Thành Trung lái chiếc F-5 dội bom vào Dinh Độc Lập. Trái bom phá hủy một lỗ đường kính khoảng 1 mét trước bậc tam cấp dẫn lên lầu 2. Tại Phủ Thủ Tướng, lực lượng phòng tủ đã được tăng cường khi có báo động. Trạm gác ở góc đường Thống nhất Nguyễn Bỉnh Khiêm có binh sĩ Nhảy Dù bố trí tại những vị trí trong yếu, hướng mũi súng về Phủ Thủ Tướng. Tôi lập tức rời văn phòng sang Viện Bảo Tàng trong Thảo Cầm Viên. Tại đây, tôi gặp Thiếu Tá Nghiêm, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ12-Nhảy Dù và hỏi lệnh của ai mà ông ấy điều động tiểu đoàn về đây. Thiếu tá Nghiêm cho biết là lệnh của Biệt Khu Thủ Đô. Tôi gọi hỏi từ trưởng phòng 3 đến Tham Mưu Trưởng đều không biết. Tôi gọi cho Trung Tướng Minh và được ông xác nhận: “Lệnh của Tổng Thống. Em trình cho Thủ Tướng biết đi”. Tôi trình cho Thủ Tướng Khiêm. Khoảng 10 phút sau, tôi được Đại Tá Võ Văn Cầm Chánh Văn Phòng của Tổng Thống gọi hỏi: “Hồi nãy toa gọi Trung Tướng Minh làm gì vậy?”. Tôi nói: “Tiểu Đoàn 12 Nhảy Dù đang bố trí chĩa súng vào Phủ Thủ Tướng nên tôi hỏi Trung Tướng để trình Thủ Tướng”. Ông Cầm  nói: “Toa lộn xộn hoài. Từ nay có chuyện gì thì gọi cho moa. Nếu không có thì gọi cho thằng Điền (hàm ý Hải Quân Đại Tá Trần Thanh Điền). Tôi vào trình lại với Thủ Tướng thì ông nói ngay: “Thằng làm tàng hoài”. Sau đó tôi hộ tống Thủ Tướng qua Dinh Độc Lập họp, khi xe đến đường Thống Nhất, tôi thấy chiếc xe díp chở Trung Tướng Trần Văn Minh Tư Lệnh Không Quân theo vào Dinh sau đoàn xe Thủ Tướng.

Đây là những dữ kiện gồm những gì  mà Đại Tá Vũ Quang Chiêm nói với nhà báo Thanh Thương Hoàng. Vì thế cho nên tôi muốn nhân dịp này viết thêm một đoạn có liên quan đến quyền lực chính trị lúc bấy giờ để tùy dư luận phán xét. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Thanh Thương Hoàng, cựu Đại Tá Vũ Quang Chiêm nói ở đoạn cuối như sau:

“Còn một chuyện này nữa, ngày 6 tháng 4 năm 1975, anh Võ Văn Cầm có nói với tôi: kể từ hôm nay và trong 3 ngày sắp tới, nếu có biến cố gì xảy ra anh cố điều động lực lượng phòng vệ Dinh (Độc Lập) cố thủ cho bằng được từ cổng vào tới trong dinh trong thời gian chừng độ nửa giờ, sau đó tôi có người lo.Tôi thắc mắc: tại sao lại có chuyện đó. Anh Cầm nói: Có thể có đảo chánh và sẽ có lực lượng Nhảy Dù và Thiết Giáp tiếp cứu”.

Không thấy có đảo chánh xảy ra như chúng ta biết mà sáng ngày 8 tháng 4 năm 1975, phi công Nguyễn Thành Trung thả bom Dinh Độc Lập ./.





28/4/11

Phỏng vấn nhà báo Vũ Ánh







VIỆT NAM 1975… NHỮNG BIẾN ĐỘNG ĐỔI ĐỜI

*12-2-2010 The Kim Nhung Show với Nhà Báo Vũ Ánh. Phần 1
 


19/4/11

A20 Đoàn Bá Phụ đã.... bỏ cuộc chơi




CHỈ CÒN NHAU !!!



Quán Lá trân trọng giới thiệu một tản văn của A20 Vũ Trọng Khải Phu Nhân, một cây viết từng "oai trấn giang hồ" ở Úc Châu mà bấy lâu nay A20 Vũ Trọng Khải dấu kỹ tài hoa "Bề Trên" của anh.
Chị Ý Cơ đã viết bằng tất cả cảm xúc của mình khi chị từng cùng phu quân sinh hoạt trong gia đình A20, từ khi Quán Lá cất chòi dựng nghiệp.
Và bài viết này khởi đi từ mất mát của gia đình A20 khi con đại bàng A20 Đoàn Bá Phụ đã bay đi không về nữa.




CHỈ CÒN NHAU !!!
( viết cho những A-20 )
                                                                                                                 Ý CƠ / ÚC CHÂU
                                                                                                                 18/4/2011


Những hình ảnh ghi lại quá khứ đau thương, đảo ngược cuộc sống của người dân Miền Nam Việt Nam trước tháng 4 – 1975, vẫn hằn sâu trong từng rãnh nhớ chúng ta, dù đã qua rồi 36 năm !
Những biến cố kinh hoàng đó, quá sâu đậm, nên tất cả người Việt còn hiện diện trên khắp địa cầu này đều có tâm trạng giống nhau, vào những tháng đầu năm, sau Tết dương lịch cho đến ngày 30 tháng 4.
Một phóng viên người Pháp đã viết cuốn sách với tựa đề
“ CRUEL AVRIL 1975/ LA CHUTE DE SAIGON.”
Đó là OLIVIER TODD.
Đã được giáo sư Phạm Kim Vinh chuyển dịch Việt ngữ với tưa đề :
“ THÁNG 4 ĐEN.”
Tác gỉa  dùng chữ CRUEL … từ âm hưởng cho đến ngữ nghĩa … tạm đủ để diễn tả nỗi thảm khốc của một tháng 4 nghiệt ngã.
Với dịch gỉa, GS/ Phạm Kim Vinh, cho trình bầy trên bìa sách “ THÁNG TƯ ĐEN.” .. chữ ĐEN, được viết hoa đậm nét bên cạnh hai chữ “ THÁNG 4.”  màu đỏ tươi ,giống như màu máu, đã cho người cầm cuốn sách trên tay hình dung được một mầu tang tóc, màu của đau thương tột cùng … MẦU BIỂU TƯỢNG CỦA NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN.
Sự kiện bắt đầu từ tháng 1 năm 1975, khi những trái hỏa tiễn được chế tạo từ Liên Sô, từ Trung Cộng hay Đông Âu, đã xoáy nát một vài nơi tại Biên Hoà …..
Và rồi, vào ngày 10 tháng 3, người dân miền Cao Nguyên, run rẩy, kinh hoang dưới làn đạn đại liên bắn chéo cánh sẻ …. Run rẩy, kinh hoang dưới làn pháo cối  ……
Trộn trong biển khói đen mịt mù, trong ánh lửa bừng  sáng từ nòng súng đại liên là những tiếng rên la xé lòng !
Những hoả tiễn ấy, những viên đạn súng cối ấy, những tràng đại liên bắn chéo cánh sẻ ấy, được dội lên đầu, lên thân xác người dân Cao Nguyên, được gởi đi từ những bàn tay người cộng sản !!!
Một lần nữa, hãy đào xới những rãnh sâu còn hằn trong tim óc mỗi chúng ta, hãy lật ra những trang sách viết về nỗi đau thương khôn siết ….nhất là ….hãy mở toang cánh cửa quá khứ để nhìn cho rõ những hình ảnh bi thảm không thể nào quên.

Anh ở đâu ? nơi nào nơi tuyền đầu Phước Long, Buôn Mê Thuật …. Hay đang trên đường di tản dọc tỉnh lộ 7 từ Cao Nguyên đổ về Duyên Hải , từ Huế vào Đà Nẵng …
Trong làn sóng người di tản từ Lâm Đồng,Tuyên Đức/ Đalạt đổ xuống Phan Rang Anh đã mang tâm trạng nào theo cùng  hành trang di tản nhỏ nhoi trên vai Anh.

Giữa biển người di tản trên quốc lộ I, Anh có thấy một chiếc xe vespa, vứt ngã bên đường ? nó đã từng chở cả một gia đình đang cuống cuồng chạy xa cõi chết, nhưng cuối cùng,  gia đình tang thương đó, cũng mỗi người một nơi, thân xác văng vãi trên đường. Con đường đó, con đường Anh từng đi qua, nay được mang tên “ ĐẠI LỘ KINH HOÀNG !”

Rồi những năm tháng sau,
Trên những con đường các Anh đã đi qua, chuyển từ trại tù này đến trại tù khác, nó có thể đã là con đường mà người dân miền Nam đã đi qua trong “CUỘC BỎ PHIẾU BẰNG CHÂN ” ngày nào.
Anh có nhớ những giọt mồ hôi chảy dài từ trán xuống làm cay mắt Anh trong những ngày nóng đổ lửa khi vác những cành củi khô hay khi phải đào những giao thông hào quanh trại tù, để ngăn cản chính mình muốn đào thoát tìm tự do !!!
Anh còn nhớ những đêm núi rừng lạnh buốt thấu sương … thao thức, hay chập chờn trong giấc ngủ mà vẫn nhớ về gia đình, nhớ người thân yêu, đôi khi thậm chí nhớ cả bà con lối xóm … cũng có thể Anh đã mê thiếp gọi tên Em trong giấc ngủ sau một ngày khổ sai nhọc nhằn !!!
Anh có còn nhớ chăng,
Những buổi sáng thức dậy theo tiếng kẻng, với thân xác còn trong cơn mộng mị
(có Anh kể lại và gọi đó là “ TIẾNG KẺNG GỌI HỒN.” ) .
Những buổi chiều thất thểu trở về trên thân xác rã rời, trên vai chiếc khăn như đã nặng hơn lên khi thấm đẫm mổ hôi nhọc nhằn tủi nhục.

Anh có nhớ chăng ?
Những giây phút mong chờ, háo hức khi nhận được thư nhà hẹn ra thăm.
Cảm xúc ngập tràn khi được nhìn rõ mặt nhau, siết chặt tay nhau … tham lam nuốt trọn hình ảnh người thân yêu cho thoả những ngày thương nhớ… Cũng không quên trao nhau những nụ hôn vội vã khi chia tay…

Nó cứ trải dài như thế trên những năm tháng tù đầy.
Anh đã bao lần đếm được những khoảnh khắc ngập tràn hạnh phúc khi nhớ đến tình cảm nồng ấm của người thân … của Em…. vẫn theo Anh từng bước chân trong những tháng ngày xa vắng.
Cũng chính nhờ những tình cảm này, là nguồn vốn quí giá giữ vững tâm hồn và ý chí các Anh trong ngục tù.
Nó, cái tình cảm quí giá đó, đã đè bẹp những thiếu thốn vật chất mà Anh phải chịu đựng, dù rằng ngày về đoàn tụ với gia đình vẫn còn mờ xa…..

Trong nỗi đau thương chung của cả Dân Tộc, mỗi chúng ta có một định phận, là một nét chấm rất nhỏ trên bản đồ Việt Nam tả tơi, đau thương.

Khi Anh ngược xuôi trên đường di tản,
Chị, trong cùng hoàn cảnh, đang ngồi ôm con, lo âu nhìn lên những đốm lửa, những vầng khói đen ngùn ngụt của trận pháo kích vào thành phố, Chị giật mình, dang rộng vòng tay ôm siết những  con thơ, như gà Mẹ sải cánh che cho đàn con trước lũ diều hâu hung ác.

Chị đã đi suốt những con đường dài chông gai của rừng núi, dẫn đến những trại tù bó chân Anh … Tay xách nách mang những món ăn đạm bạc nhưng được chắt chiu, gởi gắm thương yêu .
Ngược xuôi trên những chuyến tàu đêm, tàu chợ, nhẩy lên tàu, đeo theo tàu, có Chị đã bị chấn thương đôi chân son nhỏ, ngày nào được Anh nâng niu sắm cho đôi giầy, đôi guốc…mà ngày nay, mỗi khi tiết trời thay đổi đôi chân son ấy lại bị hành đau nhức …
 Chị vẫn thất thểu bền lòng theo Anh trên bước đường chuyển trại.

Đã có được bao lần chúng ta mở toang cánh cửa quá khứ, dù nhớ lại niềm hạnh phúc hay nỗi khổ đau … những kỷ niệm đáng nhớ hay cần quên, vẫn là gia tài quí báu của mỗi chúng ta. Hãy chia cho nhau để thấy rằng cuộc đời với đầy  ái, ố, sầu, bi … này, chúng ta vẫn còn may mắn hơn nhiều người khác, những người đang sống trên chính Quê Hương mình không tự do.

Hôm nay đây, xuôi theo dòng chảy cuộc đời, trong con sóng, khi cuồng nộ, khi đong đưa vỗ về … dù gì đi nữa, chúng ta vẫn còn may mắn hơn nhiều người khác !!!
Xin hãy nâng niu những giây phút có được bên nhau.
Xin hãy vuốt nhẹ mái tóc người bạn đời chung thuỷ, dù đã ngả mầu.
Hãy ôm vai những đứa con đã trưởng thành để các cháu thấy được cuộc sống ngập tràn  tình yêu thương của cha mẹ, và ôm siết đàn cháu ngây thơ, đó là những khối vàng sáng chói long lanh vô giá đã cho ta hạnh phúc từng giây.
Xin pha một ấm trà ngon để mời người bạn gần kề bên ta,
Xin bấm nút con số của máy điện thoại để chúng ta được nghe tiếng nói của nhau, tuy xa ngàn dặm nhưng lại quá gần như trong gang tấc bên nhau.
Xin bấm máy computer để còn biết tin nhau. Để không nuối tiếc khi ai đó lià xa  ta về nơi cuối dòng sông định mệnh. ……
Xin mượn câu thơ sau của nhà thơ Hư Vô tại Sydney :
Chúng ta mất hết, chỉ còn nhau.”
      
Ý CƠ / ÚC CHÂU
Sydney, 18/4/2011
Viết vào đêm không ngủ,
Khi được tin Anh Đoàn Bá Phụ
Chia tay chúng ta.




Tâm tình của A20 Lê Hoàng Ân



Kính thưa quý vị Niên Trưởng,
Kính thưa quý vị Huynh Trưởng,
Thưa anh em trong trại Trừng  Giới A.20,

Như tôi đã nói trong thư trước, tôi không phải là một văn sĩ, tôi không phải là một thi sĩ, tôi chỉ nói lên những gì tôi cảm nhận được và những gì tôi suy nghĩ mà nói lên mà thôi.

Thời gian tôi trải qua ở Trại Trừng Giới A.20 Xuân Phước quá ngắn ngủi, chỉ có từ ngày bọn VC chuyển toán chúng tôi từ Chí Hoà (có thể là toán đầu tiên), cuối tháng 11/1978 ra Xuân Phước, cho đến ngày chúng thả nhóm 38 người trong đó có tôi, sau hơn 1 tháng chúng giữ làm tôi mọi cho chúng trong khuôn viên doanh trại của chúng (từ tháng 09 chúng ghi trên lệnh tha cho đến gần giữa tháng 11/1981 chúng tôi mới về đến nhà tại Sài-Gòn, trong chuyến đó có Anh Lê Kim Ngân xuống ga Nha Trang, nghe nói tìm cách vượt biên với gia đình rồi mất tích luôn, không kiểm chứng được). Tôi không có dịp hoặc không có cơ hội tham gia vào những sinh hoạt của anh em có tinh thần quốc gia tuyệt vời qua tờ Hợp Đoàn, qua những sinh hoạt văn nghệ chống Cộng ngay trong nhà tù, qua những cuộc chống đối ngầm hay nổi đối với bọn khát máu, nhưng ít ra tôi cũng có những dịp nói chuyện với một số anh em trước khi tôi được chúng thả về. Một số khuyên tôi giữ im lặng vì chức vụ của tôi.