A20
Đỗ Văn Phúc
18/6/15
Tết Trong Tù
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
Những Khuôn Mặt Đáng Nhớ
A20 Đỗ Văn Phúc
Không thể không nhắc đến những người đặc
biệt trong trại ít nhiều đã để lại trong lòng anh em tù nhân, những ấn tượng
đặc biệt..
Sư huynh Phạm Quang Hồng, thuộc dòng Đa Minh (?), bị án 20 năm khổ sai vì tội tham gia lực lượng chống đối. Sư huynh còn trẻ, cao ráo, khôi ngô. Tuy cuộc sống trong tù khổ ải, anh vẫn luôn tỏ vẻ vui tươi vì anh cũng là Hướng đạo sinh nên tuân theo điều luật “gặp khó khăn vẫn vui tươi.” Qua anh, tôi học được rất nhiều điều. Anh dạy cho tôi hát các bài hát trong các phim The Inn of the Sixth Happiness, The Sound of Music, và các bản Thánh Ca… Tôi không nghe các tác giả nhắc đến Sư huynh trong các hồi ký. Hiện nay, Sư Huynh đã là Linh Mục Chánh Xứ tại một Giáo Xứ ở Perth, Tây Úc.
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
17/6/15
Hạt Vàng Trong Bãi Bùn Đen
A20 Đỗ Văn Phúc
Có lẽ vì thù ghét Cộng Sản quá, nên
chúng ta chỉ nhìn thấy những xấu xa của họ, coi tất cả cán bộ Cộng Sản đều hung
ác, thâm hiểm và dốt nát, ngờ nghệch. Nhưng thực tế, đôi khi trong chặng đường
khổ nạn, chúng tôi cũng tìm thấy đó đây những tấm lòng nhân hậu, chưa biến chất
bởi sự giáo dục đồi trụy của chủ nghĩa Cộng Sản vô luân, vô nhân.
Cán bộ Ngà coi đội 13 chúng tôi rất lâu. Câu nói thường xuyên của anh là:
– Các anh cải tạo lâu dài, làm vừa vừa để còn sức khỏe mà về với gia đình.
Anh không bao giờ đặt ra chỉ tiêu cho đội hay cá nhân các đội viên. Trong lúc đội làm việc, thì anh chạy ngược chạy xuôi kiếm khi thì mớ khoai, khi mớ sắn đem về cho đội nấu ăn tại chỗ. Trong một thời gian dài, không có anh nào trong đội bị làm khó dễ hay la mắng nặng lời.
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
No Eat, No Work
A20 Đỗ Văn Phúc
Phùng
Văn Triển vốn dân từ Bộ
binh chuyển qua Không quân. Cái Trọng Ty
là sĩ quan An ninh Quân đội. Cả hai anh đều thuộc loại bất khuất, khí tiết. Hôm
đó, hai anh gánh chung một cần xé gạo từ kho về nhà bếp cán bộ trại. Trên
đường, họ cố làm vung vãi đổ xuống đường rất nhiều. Việc phá hủy hoa màu, tài
sản trại cũng là một biểu hiện của sự chống đối. Việc này, không may, lại lọt
vào mắt tên cán bộ quản giáo đội tên Quyền.
Khi đội ra lao động bên ngoài phiá Tây Bắc của trại. Cán bộ Quyền gọi hai anh vào nhà lô của đội. Nơi đây đã có sẵn cán bộ Hoà, quản giáo đội của tôi – đang lao động gần đó – và ba tên công an bảo vệ. Vừa bước qua cánh cửa tre, Quyền và Hoà xông vào đánh anh Triển tới tấp. Anh Ty thấy vậy, định chạy ra, thì ba tên võ trang chĩa súng ra ngăn lại. Ty đã la hét thật lớn để các đội lao động quanh đó có thể nghe được:
– Cán bộ đánh anh em chúng tôi là sai. Không được quyền đánh tù.
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
16/6/15
Gương Bất Khuất Trong Tù
A20 Đỗ Văn Phúc
Thời còn đi học, chúng tôi bị ảnh hưởng
bởi những truyện lịch sử truyền thống Việt Nam, chỉ quan niệm các vị anh hùng
phải là thuộc giai tầng ưu tú xã hội như những vị vua Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái
Tổ, Lê Lợi, Quang Trung, hay các vị tướng lãnh thống soái như Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi… Nhờ chế độ Cộng Hoà và nền văn minh dân chủ khai
sáng, người Việt Nam đã nhìn đến những người anh hùng ở các tầng lớp thấp hơn
như các thiếu úy, trung úy, các hạ sĩ, binh nhì, thậm chí đến những chị Ba Hàng
Xanh, em học sinh Quách Thị Trang. Mỗi lần Bộ Tổng Tham Mưu tưởng thưởng
chiến sĩ anh hùng, đều có đủ mặt các cấp từ tướng tá trở xuống đến binh nhì, có
đủ quân binh chủng từ Dù, TQLC, BDQ cho đến ĐPQ và Nghĩa quân. Nói đến anh hùng
thời chiến là nói đến nhưng chiến sĩ quả cảm, lập nên chiến công hiển hách
trong phạm vi khả năng của họ. Thời bình hay nơi hậu phương là nói đến những
nhân vật có những hành vi hơn người, vượt thắng khó khăn sợ hãi để bảo toàn
danh dự, hay lý tưởng; hoặc có hành vi hy sinh bản thân để cứu người. Sự phong tặng
danh vị Anh Hùng của chúng ta không quá lạm dụng như trong chế độ Cộng Sản. Họ
phong anh hùng cho ngay những tên ngu muội, điên rồ bị lừa gạt chết oan nghiệt
cho cái lý tưởng sai lầm; hay những kẻ vai u thịt bắp, đem sức mình ra làm hùng
hục để kiếm tiếng khen. Kiểu anh hùng gánh phân, anh hùng thủy lợi làm cho hai
chữ cao quý này trở thành mỉa mai, lố bịch.
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
Hung Thần Trong Trại Giam
A20 Đỗ Văn Phúc
Về tên trưởng trại Lê Đồng Vũ (Xú danh
Lê Văn Nhừ)
Chuyện là như thế này. Tên phân trại
trưởng là Lê Ðồng Vũ, người miền núi Thanh Hoá có lẽ thuộc sắc dân Mường.
Khuôn mặt y bèn bẹt vô tri vô giác, trên đó có đôi mắt lèm nhèm và cái miệng
mỏng dính, thâm sì trông vô cùng nham hiểm. Chúng tôi đặt tên nó là Lê Văn Nhừ.
Nó đúng thuộc con cháu ba đời của Chí Phèo, tượng trưng cho loại người hạ đẳng
của xã hội, mang đầy mặc cảm thân phận đớn hèn, nên khi có chút quyền thế là ra
tay sinh sát thậm tệ với đồng bào đồng loại. Tên này ít nói, vô học đến
nỗi đọc lại lời trong trang sách cũng sai bét sai be. Có lần nó đọc đoạn viết
về phát triển nhà ở bên Liên sô. Thay vì: “năm
nay, có 10000 căn hộ đủ tiện nghi được đưa vào sử dụng,” nó đọc thành “có 10000 cán bộ đầy đủ tiện nghi…” Cũng
có lần, vì không biết ngừng đúng nơi dấu chấm câu, nó đã đọc một đoạn văn như
sau: “Nhân dân ta, sau khi chiến thắng đế
quốc Mỹ, đã trở thành biểu tượng anh hùng của nhân loại.” thành: “nhân rân ta sau khi chiến thắng, đế quốc Mỹ
đã trở thành biểu tượng anh hùng của nhân noại.”
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
Hai Muỗng Cơm, Hai Muỗng Nước
A20 Đỗ Văn Phúc
Mấy ngày sau khi tôi bị cùm, trại kiếm
đủ cớ để đưa vào biệt giam thêm khoảng chục anh. Chẳng bao lâu sau đó, các
phòng biệt giam chật ních người. Vì sắp đến lễ Giáng sinh, chúng lựa những
người có thành tích đấu tranh cho vào giam trước đề phòng chuyện không hay xảy
ra. Thế là chúng tôi, bốn người nằm một phòng, hai người trên một bệ chia
nhau thanh sắt cùm. Chúng tôi bắt đầu gửi tín hiệu thăm hỏi nhau và tôi được
biết bên ngoài cũng đang vô cùng căng thẳng. Nhất cử nhất động đều có ăng ten
theo dõi và báo cáo. Vì thế các anh khuyên tôi nên ứng xử thật khéo léo để
tránh bị gán thêm tội.
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
14/6/15
Những Ngày Cùm Biệt Giam
A20 Đỗ Văn Phúc
Khi nghe tiếng khoá lách cách bên ngoài,
tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Dù sắp phải đối phó với những màn ép cung mà một lời
nói sơ suất có thể mang lại những hậu quả phiền toái; hoặc có thể xảy ra màn
tra tấn đánh đập như từng xảy ra khi chúng tôi bị gán tội sách động đòi yêu
sách hồi còn ở trại K5 Suối Máu. Tuy nhiên, công tâm mà nói, ở Xuân Phước
hơn sáu năm, anh em tù nhân có thể bị khủng bố nghiêm trọng về tinh thần, nhưng
cảnh tra tấn thì không dã man bằng ở trại Kà Tum, hay các trại miền đồng bằng
Cửu Long, nơi bọn du kích, địa phương Việt Cộng quản lý trong những năm đầu.
Chúng tôi vẫn coi thường những màn hỏi cung của bọn công an vì trình độ học
thức, lý luận chúng rất kém cỏi. Vấn đề là phải làm sao để không hớ hênh khai
báo gì mà có thể liên lụy cho các bạn mình hay để chúng chụp thêm tội. Dù có
nhận tội hay không thì thời gian bị cùm cũng chẳng thay đổi gì. Đơn giản là nếu
không nhận tội, thì chúng cho là ngoan cố; mà có nhận đại cho xong, thì chúng
nó đoán sẽ còn nhiều điều cần truy cứu thêm. Nên trong cả hai trường hợp, chúng
sẽ biệt giam cho đến khi nào gần quỵ gục thì mới thả ra.
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
13/6/15
Người Tù, Chiếc Lon Gô, và Nhà Kỷ Luật
A20 Đỗ Văn Phúc
Sống trong chế độ Cộng Sản hàng chục năm ngoài
miền Bắc trước năm 1975, người dân đã quên đi chiếc bàn ủi để ủi áo quần. Có lẽ
sau khi giặt xong, vài người chỉ biết xếp áo quần lại rồi lót dưới gối cho
thẳng. Vì thế chúng ta thường thấy những cán binh Cộng Sản khi vào Saigon, ăn
mặc luộm thuộm, lùng thùng như những con rối.
Mãi cho đến những năm 78-79, có những anh em tù muốn lấy điểm, đã bày vẽ cho bọn cán bộ việc dùng bàn ủi. Văn minh miền Nam từ chiếc bàn ủi điện đã nhờ chế độ Cộng Sản, tụt xuống bàn ủi than mà chúng ta còn nhớ hình thù thô kệch với con gà trống trên đầu mũi để làm cái khoá mở ra đóng vào khi đổ than. Loại bàn ủi này đã biến mất những năm cuối thập niên 1950. Có còn chăng, hoạ hoằn là ở vùng nông thôn heo hút.
Bọn cán bộ Cộng Sản thì dĩ nhiên không dám nghĩ đến việc xa xí là sắm một cái bàn ủi than này. Lo chi, đã có bọn tù khốn kiếp bày mưu tịch thu vật dụng bằng nhôm của tù cải tạo để đúc bàn ủi xài tạm.
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
12/6/15
Trại Tù A-20, Xuân Phước
A20 Đỗ Văn Phúc
Trại A-20 được
thế giới biết đến nhiều như một trại giam man rợ nhất. Ngay cả trong danh sách
những tù nhân mà các chính phủ, hội đoàn đã và đang tranh đấu với Cộng Sản Việt
Nam để được trả tự do, trại A-20 vẫn chiếm hàng ưu tiên một. Trại A-20 từng
giam giữ những chiến sĩ Ðoàn Viết Hoạt,
Phạm Trần Anh , các vị thượng tọa, đại đức, linh mục tranh đấu cho nhân
quyền như Thích Thiện Minh, Nguyễn Văn
Vàng, Nguyễn Quang Minh. Ðây là một trại tù trừng giới ở miền Nam nơi
giam giữ lâu dài những anh em quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà được chúng liệt
vào thành phần bất trị, các bạn chiến sĩ đấu tranh cho tự do dân chủ sau ngày
30-4, và đám tù hình sự mang án chung thân hoặc tử hình. Ðã đến đây thì chẳng
ai nghĩ đến ngày về nữa. Ngay cả trong giấc ngủ, cũng chẳng mơ được chuyện
thoát ra khỏi trại. Muốn biết thêm về trại A-20, quý vị có thể tìm đọc trong “Hồi
Ký 26 Năm Lưu Đày” của Thượng Tọa Thích
Thiện Minh, Chủ Tịch Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam;
“Trại Kiên Giam” của Nguyễn Chí Thiệp;
“Đoạn Trường Bất Khuất” của Phạm Trần
Anh; và nhiều bài của Vũ Ánh đăng
trên nhật báo Người Việt hay nguyệt báo KBC Hải Ngoại.
Nhãn:
Đỗ Văn Phúc
10/6/15
Hồi Ức của cựu tù A20 Lê Ngọc Vàng
Bài của tù nhân chính trị 20 năm Lê Ngọc Vàng (Z30A Xuân Lộc,
A20 Xuân Phước & Đầm Đùn Thanh Hóa) - nhuận sắc bởi Thư Viện Phạm Văn Thành - tháng 5/2015
Đấu tranh
Đất Nước Việt Nam trải qua gần thế kỷ, quằn mình gánh chịu nhiều nỗi tang
thương và mất mát.
Dân Tộc Việt Nam phải chịu đắm chìm trong tủi nhục, bị đàn áp, bắt bớ tù đày,
nhà tan cửa nát, gia đình ly tán, thậm chí đến giờ phút nầy vẫn còn người bỏ
nước ra đi, không ít người chết nơi đất khách quê người !!!
Từng chặng đường lịch sử của dân tộc từ sau hiệp định Geneve 1954, đến nền đệ
nhứt, đệ nhị Cộng Hòa cho tới chế độ Cộng sản, một quãng thời gian dài để cho
chúng ta suy nghĩ ??!
Có phải Dân Tộc Việt Nam ôm nỗi trông chờ và khát khao cho xứ sở một cuộc Cách
Mạng càng xa thăm thẳm?!!!
Nhãn:
Lê Ngọc Vàng
5/6/15
“Ông Be” - chuyện người tù A20 bất khuất 33 năm trước
Với những ai đã từng biết những quái ác tàn độc của những trại tù trong hệ thống nhà tù cải tạo dày đặc tại Việt Nam sau biến cố Saigon thất thủ 30 tháng Tư năm 1975… đều không chút ngạc nhiên về cách thế xưng hô bắt buộc do kẻ thắng trận là Việt cộng miền Bắc bày ra giữa tù nhân cải tạo (quân cán chính VNCH) với quản giáo (Việt cộng) ở những trại giam tù cải tạo trên toàn quốc sau tháng Tư đen 1975.
Tù nhân bị buộc phải gọi cán bộ quản giáo bằng cán bộ, hay bằng “ông” [“ông”: ở các trại tù Phú Túc (quận Hiếu Đức nay VC nhập chung vào thành quận Hòa Vang), trại An Điềm (Đại Lộc), trại Sườn Giữa (thuộc trại An Điềm nhưng cao hơn, xa hơn An Điềm và nước độc hơn), trại Tiên Lãnh (quận Tiên Phước)… thuộc vùng ngược miền núi tỉnh Quảng Nam đầy hiểm trở và ma thiêng nước độc), và tự xưng là tôi… dù “ông” đó tuổi chưa đáng tuổi con của những tù nhân VNCH vừa bại trận.
“Ông Be”, chính là tù nhân chính trị A20 còn rất trẻ, cho tới ngày anh bị tà quyền xử bắn 1982 chỉ mới ba mươi tuổi… nhưng sao lại được anh em chiến hữu đang ở tù lẫn bọn cán bộ quản giáo trại tù khét tiếng tàn ác Thung Lũng Tử Thần này gọi bằng ÔNG sau khi bị xử bắn vì vượt ngục???
4/6/15
Trước giờ vĩnh biệt !
(Kính tặng hương hồn các anh em đã bị xử tử
hình
tại Bình Điền, Quảng Nam và Phú Yên
Đặc biệt tưởng nhớ Kiều Đình Thanh, Tạ Hồng Nhạn, Phạm văn Be ...)
Anh ra đi không một lời từ giã
Tôi nghẹn ngào bên vách đá thâm u
Kỷ niệm nào ròng rã mấy mùa thu
Đã sống bên nhau trong lao tù Cộng sản
Rồi giờ đây trên con đường sứ mạng
Anh đến pháp trường bỏ lại một mình
tôi
Tiếc thương anh tôi nói chẳng nên lời
Ôm vách đá rong rêu còn hơi ấm !
Cũng nơi đây đã bao lần máu đẫm
Những trận đòn như thịt nát xương tan
Thôi hết rồi đâu còn thủa dọc ngang
Đường Cách mạng nửa đường anh gãy cánh !
Bỏ lại đây suốt cùm trong khám lạnh
Mới ngày nào hai đứa xích cùng nhau
Chia sẻ từng hạt muối cọng rau
"Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ
"
Tình chiến hữu luyến lưu là thế đó
Mà giờ đây anh vội bỏ đi rồi
Tôi nuốt hờn sao lệ vẫn trên môi
Hồn tấy máu !
Tiễn anh
giờ phút cuối
Chốc nữa đây anh trở về cát bụi
Có lẽ nào !.. hay Thượng đế bất công ...
Nghe hung tin - Cả dân tộc đau lòng
Tựa núm ruột của mình dao ai cắt !
Vợ con anh lệ nhòa trong giếng mắt
Tiễn đưa chồng không kịp mặc áo tang
Than than ôi ! Đã gãy cánh chim bằng
Chọn cái chết hiên ngang giòng kiêu hãnh
Anh đã bước theo tiền nhân dũng mãnh
Đem máu mình tô đất Mẹ thân yêu
Tôi ngồi đây trong ngục tối sáng chiều
Qua lỗ gió chắt chiu lùa nỗi nhớ
Có phải Anh đang về trong hơi thở
Thăm bạn hiền hay nhắc nhở điều chi
Vâng - tôi nghe Anh gọi: Dậy mà đi
Dậy nối tiếp chặng đường Anh dang dở
Tôi đã thấy bên kia trời rực rỡ
Ánh bình minh đang nở nụ môi hồng
Nắng xuân về xua giá lạnh đêm đông
Đời trỗi dậy như thành đồng bất tử
Tên của Anh đã đi vào lịch sử
Nhưng giống nòi giữ mãi một niềm thương
Anh đi quét sạch màu sương
Ngày mai nắng ấm quê hương thanh bình
Chia tay giữa chốn ngục hình
Vắt hồn rướm máu khúc tình non sông.
A20 Vũ Bình Nam
1993 A20 Phú Yên
Nhãn:
Vũ Bình Nam
3/6/15
Đêm vượt ngục!
(tưởng niệm anh Phạm Văn Be cùng các bằng hữu
đã hy sinh trong cuộc vượt ngục 1981.)
Ai đã thấy ngang trời rực lửa
Bóng mây vờn cây lá chốn hoang vu
Ai đã nghe tiếng đất rít căm thù
Đêm vượt ngục lòng tôi ghi nhớ mãi !
Một người bạn đã nghìn thu ở lại
Khép mi sầu miên viễn giữa đồi hoang
Quốc dân ơi, đây rừng núi Trường Sơn
Quốc dân ơi, đây tù ngục chứa căm hờn
Đây xiềng xích những người yêu tổ quốc
Yêu độc lập tự do, yêu hạnh phúc
Yêu tương lai dân tộc giống Tiên Rồng !
Đêm nay gió thổi lạnh lùng
Rừng thiêng sương trắng phủ trùm sơn khê
Âm vang rờn rợn bốn bề
Kìa bao chính khí bay về Trường Sơn
Đêm nay mưa đổ từng cơn
Phải chăng tiễn một linh hồn ra đi...
Ai đổ lệ phân ly
Ai rượu nồng tiễn biệt
Có gì đâu !
Một kiếp lưu đày !
Mộ hoang một nấm sơ sài
Cỏ tàn hoa dại tháng ngày tiêu sơ
Nào ai sương khói sớm trưa
Từ đây phó mặc gió mưa phũ phàng
Đêm nay mười sáu tháng năm
Suối vàng anh đến nhà giam tôi cùm.
Anh nằm xuống nơi này
Nghìn thu - thôi vĩnh cách
Chúc hồn người thiên cổ
Miền cực lạc siêu thăng
Chúng tôi còn ở lại
Nói làm sao hết khó khăn
Đòn thù tơi tả
xác thân rã rời .
Gian nan nào xá anh ơi
Xà lim cùm thép trò chơi mạt đời...
Nấu nung chí vững gan bền
Hẹn ngày vùng vẫy báo đền non sông.
A20 Bảo Giang Lê Văn Triệu
1981-1993
Nhãn:
Lê Văn Triệu
2/6/15
Phạm Văn Be, bậc yên hùng của A20
... anh hùng tử, khí hùng bất tử !
Nguyên quán Bến Tre. Tử hình tháng 2/1982.
Trại Viên A20 Lập Mộ !
"Anh nằm xuống
sau một lần đã đến đây..."
Nhãn:
Phạm Văn Thành,
Phan Văn Be;
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)