11/12/19

Người Hát Rong Trong Hầm Xe Điện Ngầm

 A20 Nguyễn-Đại-Thuật


 Con tàu TGV nối liền thành-phố Dijon-Paris ngừng tại điểm đến ga Lyon. Phú xuống xe, kéo va-li đi dọc theo hành lang ga, xuống hầm xe điện ngầm để đón xe về khách-sạn.


Chiều thứ sáu, đang là giờ cao-điểm cuối tuần nên hành khách đi lại rất đông. Phú chen đi trong dòng người vội vã, vừa ra khỏi cầu thang cuốn, anh thoáng nghe có tiếng đàn guitar hòa lẫn giọng ca nam nhẹ vang lên trong góc hầm, giọng ca tiếng Việt buồn não, lời bài ca đã lâu lắm anh mới có dip nghe lại:

 

Trời đêm dần tàn, em đến sân ga để tiễn người trai lính về ngàn.

Cầm chắc đôi tay, ghi vào đời tâm-tư ngày nay.

Gió khuya ôi lạnh sao, vấn nhẹ đôi tà áo.

Tàu xa dần rồi, thôi tiếc thương chi khi biết người ra đi vì đời

Trở gót bâng-khuâng em hỏi lòng đêm nay buồn không.

Chuyến xe đêm lạnh không ?  Để người yêu vừa lòng ?

Ngày tháng đợi chờ, em đến sân ga nơi tiễn người trai lính ngày nào

Tàu cũ năm xưa, mang người tình biên khu về chưa ?

Trắng đêm em chờ nghe tiếng tàu đêm tìm về....

 

5/12/19

SỐNG VỚI ĐÀN ANH, KHÔNG PHẢI DỄ.. !



A20 Kiều Công Cự K22

Khóa 22 nhập học ngày 2/12/1965, nhưng phải đợi 5 ngày sau một phái đoàn gồm 52 “nhân tài” của 4 tỉnh Trị -Thiên – Nam – Ngãi, được một chiếc phi cơ quân sự đưa từ Đà Nẵng vào Liên Khương cho đủ túc số 274 người. Thôi thì quí vị “hung thần Khóa 21”, đang huấn luyện khóa 22, đổ cho đủ thứ tội như là các anh biểu tình chống đối, tà tà câu giờ, bạn bè các anh đang thi hành lịnh phạt còn các anh thì đang thảnh thơi.. .. Nhưng “Biệt đoàn B52” vẫn bình tĩnh chấp nhận mọi hình phạt, lắng nghe mọi lời nặng nhẹ… không có gì chống đối hay phản đối (nếu làm ngược lại là chết ngay).. Mà quả thật biệt đoàn này có nhiều nhân tài như Vua Lâm Viên Đỗ Văn Chánh (Quảng Ngãi), thủ khoa Rừng Núi Sình Lầy là Châu Văn Hiền tự Cóc (Huế), hai người thủ Quốc Quân kỳ (có chiều cao nhất khóa) là Trần Đình Thạnh và Phan An (Thừa Thiên). Tội nghiệp Thạnh đã chết trong đợt thảm sát tết Mậu Thân khi cùng người yêu tên Ly về Huế thăm nhà và xin mẹ làm phép cưới. Đặc biệt Huỳnh Văn Thảo (Huế), một trong những người trẻ nhất khóa, đã hy sinh trong khi đi giữ thùng phiếu tại Suối Vàng nhân bầu cử Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Đúng là Thảo đã đến Suối Vàng và không bao giờ muốn trở lại Dương Thế và khóa 22A rất hãnh diện ra trường năm 1967 với cái tên của người bạn mình, Khóa Huỳnh Văn Thảo, và thủ khoa khóa 22B Nguyễn Đức Phống (Huế) cũng là nhân tài của biệt đoàn B52. Phống ra trường sau 4 năm học chọn về Thiết giáp và cũng đã “DA ngựa bọc thây” tại chiến trường Campuchia năm 1970. Khóa 23 ra trường có tên gọi là Khóa Nguyễn Đức Phống. Và còn nhiều nữa kể ra không hết.

1/12/19

Ðại Úy KIỀU CÔNG CỰ




CÔ TÔ là biệt danh của Cựu Đại úy KIỀU CÔNG CỰ .
Anh sinh ngày 18/6/1942 tại thị trấn Ái nghĩa, quận Đại lộc, tỉnh  Quảng Nam.
Học Trường Tiểu học Xuân An (Đà lạt), Trung học Trần Quí Cáp (Hội An) và Đại học Khoa học (Sài gòn). Tình nguyện gia nhập Khóa 22 Trường Võ Bị  Đà-Lạt ngày 22/11/1965 và mãn khóa (Huỳnh Văn Thảo) ngày 2/12/1967 .
Tình nguyện về Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến và được đưa về TĐ2/TQLC có Hậu cứ tại trại Lê Hằng Minh (Tam hà, Thủ Đức). Làm Trung đội trưởng Trung đội 42 thuộc ĐĐ4 của Tr/U Trần Văn Hợp. Rồi ĐĐ phó ĐĐ4, Trưởng ban 3/TĐ và Đại đội trưởng ĐĐ4 ( 12/1969) .
Bị thương tại chiến trường Hạ Lào (1971). Xuất viện chuyển về TĐ9/TQLC của Th/tá Nguyễn Kim Đễ, giữ chức vụ Trưởng ban 3 và Đại đội trưởng ĐĐ1cho đến ngày đi học khóa 5/74 Bộ binh Cao cấp tại Trường Bộ binh ở Long Thành.
Mãn khóa học về làm Trưởng ban 3 /TĐ2/TQLC cho đến ngày 30/4/1975.
Gần 10 năm tù CS qua các trại từ Nam ra Bắc.
Qua Mỹ theo chương trình HO 22 ngày 22/11/1993.
Hiện cùng Gia đình định cư tại Anaheim, Nam California.

25/11/19

ĐÀ LẠT, KHUNG TRỜI NGHỊCH NGỢM


        A20 Bùi Đạt Trung 25
    Đó là “Nhất Quỷ, Nhì Ma, thứ Ba Học trò”. Nguyên lý không bao giờ sai, trong tất cả mọi môi trường học vấn, ở bất cứ nơi nào. Chính từ những nghịch ngợm đó mình mới có những kỷ niệm sâu đậm trong cuộc đời khi mình còn son trẻ, đầy nhiệt huyết.
Để ghi dấu những kỷ niệm đó, tôi xin ghi lại một vài khung trời lặt vặt, mà trong đó những bạn nào đã khuất tôi có thể nêu tên, để chúng ta cùng tưởng nhớ các bạn đó, còn những bạn vẫn sống nhăn răng, thì tôi không dám vì sợ những tên này sẽ tìm đến giết tôi như giết người trong mộng, ai muốn đoán ai thì đoán, trời kêu ai nấy dạ.
1.     KHUNG TRỜI “NGHÊU NGAO”
Năm thứ hai, tôi ở Đại Đội D, lầu ba, Nguyễn Minh Chánh ở lầu hai. Ngay chân cầu thang, đối diện với phòng Sĩ quan Cán bộ Đại Đội Trưởng, lúc đó là Niên Trưởng Lê Diêu K16. Một hôm có một giờ tự do không đến lớp, tôi lại phòng Chánh ngồi đấu láo, nghe nhạc. Ngay lúc đó nhạc đang lên bài LỆ ĐÁ, bỗng Chánh ngẫu hứng hát: “Đại Úy Lê Diêu… bao nhiêu tuổi đời……”. Làm tôi cũng ngẫu hứng hát theo: “Đại Úy Lê Diêu…35 tuổi rồi…”. Ai dè lúc đó Đại Úy Lê Diêu vừa lên khỏi cầu thang, ông nghe vậy, liền tung cửa phòng và hỏi: “Ông nào vừa mạ lị tôi ĐỌ ?”

13/11/19

Anh trở về trên đôi nạng gỗ (Kỳ 14 "Hết")



A20 Vũ Ánh


Vẫn mang nặng trên lưng một gánh thảm kịch

Có lẽ trong số tất cả những người bạn thương phế binh, hiện nay tôi chỉ còn liên lạc được với Tùng. Cuộc sống của vợ chồng Tùng tương đối vững vàng. Hai vợ chồng đã mở được một quán ăn thay cho cái quán cà phê nghèo nàn trước đây. Lá thư Tùng qua e-mail cho tôi cách đây vài tuần cho thấy rằng Cúc và Tùng có thể bành trướng thêm cái quán ăn này, nhưng Tùng nói rằng đời sống của họ như vậy là bonus rồi, không đòi hỏi gì hơn nữa. Nhưng điều Tùng buồn nhất là đám bạn bè thương tật cũ nay không còn tìm lại được đứa nào. Nghèo khó, đói, bệnh tật và những chiến dịch tảo thanh “làm sạch đường phố” khiến cho họ thất tán thêm một lần nữa.

Tùng cho biết có mùa Xuân vừa rồi, anh lên mấy trại được mệnh danh là phục hồi nhân phẩm tại Phước Long để tìm tông tích những bạn cũ, nhưng không gặp được người nào. Tùng viết: “Tại sao em lại lên vùng này tìm các bạn chúng ta, vì bọn họ không biết nhốt những người như chúng em mà phải sống trên hè phố vào đâu, nên cứ hốt được người nào là thẩy lên Sông Bé. Dường như trên bờ con sông này hiện nay là quần đảo của trại giam những phạm nhân nam nữ tệ nạn xã hội. Cái đau của em là những bạn chúng ta là tuy phải sống trên hè phố, họ vẫn sống lương thiện như lối sống của sống của những người lính”.

Anh trở về trên đôi nạng gỗ (Kỳ 13)



A20 Vũ Ánh

Cái hậu dành cho một thương binh

LTS.- Trong bài 12 của số báo trước, tôi viết dở dang câu chuyện về người thương binh Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Tùng sống bằng nghề bơm ga hộp quẹt trên đường Nguyễn Minh Chiếu. Câu chuyện được tiếp tục trong kỳ này.
Có thể nói gia đình Tùng là gia đình quân đội: Từ bố Tùng cho đến 3 anh lớn của Tùng đều là lính. Tùng cho biết:
- Bố em chỉ là hạ sĩ quan, tử trận trong cuộc hành quân Ðỗ Xá thời Tổng Thống Diệm. Em là con út lúc đó còn ẵm ngửa, không biết gì. Sau này mẹ em mới kể lại. Gia đình sau này sống cũng nghèo khó nhờ vào gánh bún riêu của mẹ em. Ba người anh trên em đều tình nguyện vào trường Bộ Binh Thủ Ðức, phần vì muốn theo con đường của bố em, phần vì cũng muốn đỡ gánh nặng cho mẹ em. Hai anh lớn nhất của em đi trước, hai năm sau đó thì anh thứ ba mới nhập ngũ. Năm 1966, 1967 và 1969, mẹ em và em đón liên tiếp mấy cái tang. Anh Cả em tử trận tại Kinh Thác Lác, Sóc Trăng, giữa năm 1966. Không đầy một năm sau, anh Ba em tử trận vì máy bay trực thăng rớt trước lúc đổ quân ở gần Mỏ Vẹt, Tây Ninh. Người anh kế em chết vì mìn trên đường từ Qui Nhơn đi quận Hoài Ân trong cuộc hành quân mở đường Tháng Mười 1969. Bây giờ gia đình chỉ còn mình em với mẹ em thôi.

Anh trở về trên đôi nạng gỗ (kỳ 12)


A20 Vũ Ánh

Cũng là để nhận nhau!

Cuộc sống của thương binh Nguyễn Văn Tùng sẽ là một cuộc sống tốt đẹp nếu không có những điều bất hạnh về tình cảm. Tôi quen Tùng tại chiếc tủ bơm ga hộp quẹt trên đường Nguyễn Minh Chiếu Phú Nhuận. Ðó là vào khoảng giữa năm 1990. Nhân một chuyến chở người khách đến một địa chỉ khoảng cuối con đường này, tôi ghé chiếc xích lô vào một quán nước trà vối bên đường để nghỉ mệt, làm một bát nước trà vối và hút điếu thuốc lào. Thuở ấy, những quán cà phê bên lề đường vẫn còn thịnh hành, nhưng thỉnh thoảng người ta vẫn bắt gặp những quán đặc biệt bình dân hơn, chẳng hạn như trà xanh hay trà vối phần lớn của những người từ miền Bắc di dân vào Nam kiếm sống. Quán trà vối này là một điển hình. Người chủ quán kê một chiếc chõng tre trên lề đường, xung quang là những chiếc ghế đẩu thấp, trên chiếc chõng tre là những hũ kẹo đậu phọng (kẹo lạc), bánh đậu xanh, kẹo hạt điều, bên cạnh bà là một nồi nước lúc nào cũng sôi. Nước dùng để pha vào mấy cái ấm bằng sành lớn. Không có ly mà chỉ có những chiếc bát úp chồng lên nhau. Ðúng là hình ảnh của loại quán bên đường ở miền Bắc từng gây những ấn tượng đặc biệt của một thời đã qua.

Anh trở về trên đôi nạng gỗ (kỳ 11)



A20 Vũ Ánh

“Dù có mất đi đôi chân”

Không phải những thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa nào cũng phải sống trên lề đường cả. Nhiều người cũng vẫn còn may mắn có được sự thông cảm và thương mến của vợ con chăm sóc. Một số không nhỏ có vợ hay có con vượt biển sang được Hoa Kỳ hay các quốc gia khác gởi tiền về trợ giúp. Trong những trường hợp như thế, những đau khổ vì khiếm khuyết những phần thân thể của họ còn được an ủi phần nào. Nhưng trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn họ, những nỗi đau có thể chẳng bao giờ nguôi ngoai. Một người bạn của tôi nằm vào một trong số những trường hợp này. Nguyễn Ngọc Thuấn, chuẩn úy khóa 2/68 trường Bộ Binh, ra trường về phục vụ tại Tiểu Khu Long An, được chuyển sang làm việc tại Ủy Ban Bình Ðịnh Và Phát Triển. Trong chuyến đi thanh sát tại một xã thuộc quận Thủ Thừa, chiếc xe jeep của anh bị trúng mìn Việt Cộng đầu năm 1969. Thuấn bị thương nặng phải cưa cả hai chân.
Trường hợp của Thuấn khá đặc biệt. Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật năm 1965, Thuấn không đi tập sự để ra luật sư. Anh xin vào làm việc ở Bộ Nội Vụ cho mãi đến sau Tết Mậu Thân thì bị gọi động viên. Trong suốt quãng đời công chức, Thuấn quen một người con gái. Mối tình kéo dài khá lâu. Nhưng khi Thuấn mặc áo lính, ý định thành hôn giữa hai người bị đình lại, do ý của Thuấn. Tôi hỏi Thuấn lý do đình hoãn, được anh trả lời: “Mày lăn lộn chốn giặc giã chắc cũng hiểu là khi đã lính tráng rồi, sống nay chết mai đâu biết được. Lấy nhau, nếu tao có mệnh hệ nào thì cũng tội nghiệp cho L.”

Anh trở về trên đôi nạng gỗ (kỳ 10)



A20 Vũ Ánh


“Cựu tù nhân và những ngày lễ lớn”

Trong giấy tờ ra trại vào cuối Tháng Mười năm 1988, Cục Trại Giam Miền Nam có ghi là tôi bị đặt dưới chế độ quản chế 5 năm. Về ngày hôm trước thì sáng hôm sau tôi đến trình diện công an phường ngay. Trưởng công an phường tôi ở lúc đó là Vinh “đen”. Anh ta khoảng độ 40 ngoài, người Thái Bình, từ bộ đội chuyển ngành sang công an. Khi tôi xuất trình giấy ra trại ra thì anh ta bảo tôi ngồi xuống ghế rồi hỏi: “Anh làm gì mà ở trong trại lâu vậy”. Tôi nói: “Tội phản động”. Vinh “đen” cười cười: “Người ta cũng tội phản động như anh đi ba năm đều về sao anh ở mãi đến nay. Chắc lại chống báng gì trong trại phải không? Thôi, đưa tôi chứng nhận cho và về đời sống này thì đừng có vọng động gì nữa nghe không?” Sau đó, anh ta đưa cho tôi quyển sổ trình diện và dặn: “Anh đi đâu thì tự do, không cần phải xin phép. Chính quyền ta đã đổi mới, nhưng đi đâu ngày nào và gặp ai anh cũng phải ghi đầy đủ vào quyền sổ này, tháng nộp cho tôi một lần”.
Tôi cầm quyển sổ về nhà, và thực hiện y như đòi hỏi của công an phường. Nhưng đến tháng thứ ba thì, Vinh “đen” ký xong, bảo tôi:
- Này anh, tháng sau khỏi trình diện tôi mà cũng khỏi ghi vào sổ. Chỉ cần cũng ngày này một năm sau lại trình diện để tôi hỏi những gì tôi thắc mắc. Nói thật với anh, tôi bận nhiều việc quá mà tiếp anh hàng tháng thì mất hết thời giờ. Vả lại tôi cũng thấy anh tốt rồi.

Anh trở về trên đôi nạng gỗ (Kỳ 9)




A20 Vũ Ánh


“Chỉ tại tao mất hai chân thôi”

Cổn hơn các bạn đồng cảnh khác là ở anh không phải sống trên vỉa hè. Anh thuê được một chiếc ghế bố trong căn nhà ở cái ngõ hẻm chỉ cách rạp Cao Ðồng Hưng 2 khu phố, chủ nhà của Cổn là một bà cô họ. Con hẻm rộng chỉ vừa cho một chiếc xe đạp lọt qua, nhưng khi vào trong thì được nới rộng ra thêm. Theo bà cô của Cổn, trước ngày 30 Tháng Tư năm 1975, hẻm ngoài không hẹp như thế, nhưng hai bên hẻm có khoảng đất trống bị một số thương phế binh cắm dùi. Ðầu tiên họ cất lên hai căn nhà tạm bằng gỗ, nhưng sau họ bán lại cho người khác miếng đất này. Người chủ mới cất hai căn nhà gạch rồi lại còn lấn thêm vào ngõ hẻm nên mới làm cho phía ngoài con hẻm này thì hẹp mà phía trong vẫn như cũ, rộng rãi hơn.
Người trong ngõ gọi ngõ hẻm của họ là “Ðiểm Du Lịch Số 10”. “Tại sao họ lại gọi như thế?” Tôi hỏi Cổn và được anh giải thích:
- Có gì đâu anh. Con số 10 là con số bù, những căn nhà trong xóm cả mười mấy năm nay không được sửa sang hay quét vôi lại, tất cả những điều kiện về vệ sinh cũng đều là số 10 hết. Nhưng anh thấy trước mắt và phía bên kia đường thiên hạ say sưa tự biến những căn nhà ba từng lầu của họ thành khách sạn mini để đón khách Việt kiều. Những khách Việt kiều sành sỏi thường chọn các khách sạn kiểu nhỏ năm bảy phòng, có khi chỉ vài ba phòng cho thuê khoảng từ 10 đến 20 đô la một ngày. Do có sự đối chọi của những căn nhà bên kia phố khiến cho người dân trong hẻm này gọi đó là Ðiểm Du Lịch Số 9 còn bên này là “Ðiểm Du Lịch Số 10”.

Anh trở về trên đôi nạng gỗ (Kỳ 8)


A20 Vũ Ánh

Tình nghĩa chỉ là giấc ngủ trưa”
Khi quen một người bạn, dù là thương phế binh, tôi thường hỏi họ về gia cảnh. Ðể biết thôi và để yên tâm rằng chúng tôi là người có thể chia sẻ cho nhau những ngọt đắng của cuộc sống vào thời đó. Ðối với những người mới về từ trại cải tạo như chúng tôi, việc giao du cũng phải hết sức cẩn thận. Vào những năm 1989-1990, những người về sau chót như chúng tôi, tuy vẫn phải sống dưới lệnh quản chế, nhưng cường độ cưỡng chế đã giảm đi nhiều. Nhưng mẹ tôi là người từng sống suốt chiều dài của biết bao nhiêu lận đận do ảnh hưởng của từng giai đoạn lịch sử, từ lúc bố tôi đi kháng chiến, bỏ về thành năm 1949, bị ám sát hụt mấy lần, di cư vào Nam tưởng đã yên nào ngờ lại phải trải qua giai đoạn ghê gớm hơn sau 30 Tháng Tư năm 1975, nên các cụ có khá nhiều kinh nghiệm đối xử với nhiều hạng người sau mỗi sự đổi thay. Cụ thường xuyên nhắc nhở tôi rằng, tuy tình hình xem ra cũng có nhiều thay đổi, nhưng coi chừng “họ vẫn có những dòm chừng đối với những người mà lý lịch còn nặng nề như tôi”. Cụ nói: “Lý lịch của con đã đen ngòm như thế trong khi những tên chỉ điểm của công an giăng mắc khắp nơi, nói năng hay giao tiếp phải cẩn thận chứ không khéo lại khăn gói quả mướp vào tù lại đấy con à”.

Anh trở về trên đôi nạng gỗ: (Kỳ 7)



A20 Vũ Ánh

Cái hậu của một cuộc chiến

Sau cuộc gặp gỡ qua bữa nhậu đó, tôi có thêm một người bạn. Tuy là thương phế binh thuộc về một phe là đối phương của chúng tôi trước ngày 30 Tháng Tư năm 1975, nhưng trong cuộc sống Hoàn có những suy nghĩ tiến bộ và cởi mở. Hoàn nói: “Cả anh lẫn bọn em đều là những người thất bại cả. Nói chung là như vậy, chỉ bọn cầm quyền bòn rút của công là những kẻ thắng lợi. Cứ suy cho rộng hơn thì cả dân tộc này đều thua hết, chỉ vài trăm ngàn đứa nắm quyền mới không ở phe thua như chúng ta”.
Năm 1992, một tháng sau khi tôi đi định cư tại Hoa Kỳ, Hoàn bị bắt trong vụ tranh chấp giữa Câu Lạc Bộ Kháng Chiến và Quân Khu 7. Tính có viết thư cho tôi biết tin Hoàn bị bắt, nhưng anh không thể nói rõ chi tiết được và sau đó tôi bặt tin Tính.
Phải nói rằng, trong suốt 3 năm kể từ khi ra khỏi trại cải tạo cho đến lúc bước lên chiếc TU-134 của Hàng Không Việt Nam để sang Thái Lan, những người bạn thương phế binh của tôi, thuộc cả hai phe, đã trở thành những hình ảnh trong sáng về tình bạn mà tôi không bao giờ quên được. Ðành rằng trong số những người sống cầu bơ cầu bất như họ, không thiếu chi những kể sống thiếu nhân cách, nhưng nói chung thì đều do hoàn cảnh cả và việc giữ gìn nhân cách trong giai đoạn ấy là một việc làm khó khăn vô cùng.

Anh trở về trên đôi nạng gỗ (Kỳ 6)


A20 Vũ Ánh


 “Què cụt rồi thì còn sợ gì nữa?”

Trong suốt bữa ăn, Hoàn uống nhiều và cũng nói khá nhiều, nhưng vẫn tỉnh táo. Dường như anh ta không say. Anh nói về một số bạn bè anh đã chết trên đường vượt Trường Sơn, tới những lần bị máy bay Mỹ tấn công, tới những đồng đội của anh bị sốt rét chết giữa đường, tới gia đình anh ở ngoài Bắc:
- Em có 6 anh chị em, nhưng chỉ có hai thằng phải vào bộ đội thôi. Một thằng anh của em không phải đi “B” (xâm nhập Tây Nguyên) vì ông ấy lấy được cô vợ con nhà có thần thế ở Hải Phòng. Còn lại mấy chị gái đều đã có gia đình, có con, trước khi chế độ mở chiến dịch đi “B”. Vào đến Tây Nguyên là em bị thương và trở thành phế nhân ngay.
- Khi cậu bị thương đem về quân y viện vùng Tam Biên (ngã ba biên giới giữa Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, Lào và Căm Bốt), sau khi lành vết thương làm sao mà lặn lội về Bắc được?

Anh trở về trên đôi nạng gỗ: (Kỳ 5)


A20 Vũ Ánh

Một kiểu kinh doanh lạ lùng

Ngày thương binh và xã hội năm 1990, Thuận thỏ, Tính, Tuấn và Cả rủ tôi đến nhậu ở nhà một thương phế binh vốn thuộc quân đội Miền Bắc. Tôi hỏi Thuận thỏ:
- Ngày này đâu phải của các cậu?
- Thì mình ăn ké thôi. Cũng như anh, ngày 2-9 đâu phải của bọn mình mà trong trại vẫn được ngả heo?
- Ai nói với cậu vậy?
- Mấy ông anh họ của em cho em biết như vậy, dù rằng rằng chỉ một con heo mà 800 người ăn, mỗi người chỉ được miếng mỡ bằng 2 ngón tay.
- Mà mấy cậu quen hắn ra sao. Tôi nghe nói vẫn còn cái hố ngăn cách rất lớn giữa thương phế binh của hai quân đội mà?
Tính vội nói:
- Ðúng đấy, mặc dù cũng cụt chân, tay, mất mắt như tụi em, nhưng phần lớn đám thương phế binh của miền Bắc vẫn tưởng họ là người chiến thắng, nhưng suy đi nghĩ lại họ cũng là những kể thất bại không hơn không kém. Riêng tụi em thấy Hoàn chơi được, hắn cũng không ưa gì chế độ này và tính tình cũng đàng hoàng.

12/11/19

Anh trở về trên đôi nạng gỗ: (Kỳ 4)



A20 Vũ Ánh

“Thôi người ta sao mình vậy”

Tôi trở nên quen thân với “nhóm thương phế binh” của Tính chỉ trong một thời gian ngắn sống trên hè phố với họ. Hiên rạp Cao Ðồng Hưng trở thành mái nhà chung của họ vào ban ngày. Ðến khuya họ thường phân tán vào hàng hiên của các ngôi nhà có hàng hiên quanh đấy ngủ để tránh tập trung, công an có thể để ý. Những ngày Mùa Hè đôi khi tôi nằm với họ ở ngoài trời cho mát và vui  thay vì ngủ nhà. Khi nào tôi được khách sộp Việt kiều tặng tiền tip nhiều, đều mua bia hơi đãi cả nhóm. Chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau tới khuya rồi trải poncho ngủ. Tính tìm cách đút lót cho mấy tên công an quận Bình Thạnh thường hay ruồng bố bắt người ngủ ngoài đường phố tống vào các trại tạm trú bằng tiền đóng góp chung của cả nhóm hàng tháng (gọi là trại tạm trú cho oai chứ thật ra là một số trại giam được dựng lên để nhốt đám trẻ bụi đời, xì ke ma túy, gái mại dâm vào mỗi dịp cần “làm sạch” đường phố trong những dịp lễ quan trọng).
Tôi đề nghị mãi Tính mới chịu cho tôi đóng góp một phần số tiền xâu này. Thật ra số tiền góp chỉ đủ mua hai bao thuốc thơm Jet, loại thuốc sản xuất ở Thái Lan, có mùi thơm nồng được chuyển lậu vào Việt Nam qua ngả biên giới Nam Việt Nam mà đám cán binh Cộng Sản rất mê hút.