A20 Vũ Ánh
“Tình nghĩa chỉ là giấc ngủ trưa”
Khi
quen một người bạn, dù là thương phế binh, tôi thường hỏi họ về gia cảnh. Ðể
biết thôi và để yên tâm rằng chúng tôi là người có thể chia sẻ cho nhau những
ngọt đắng của cuộc sống vào thời đó. Ðối với những người mới về từ trại cải tạo
như chúng tôi, việc giao du cũng phải hết sức cẩn thận. Vào những năm
1989-1990, những người về sau chót như chúng tôi, tuy vẫn phải sống dưới lệnh
quản chế, nhưng cường độ cưỡng chế đã giảm đi nhiều. Nhưng mẹ tôi là người từng
sống suốt chiều dài của biết bao nhiêu lận đận do ảnh hưởng của từng giai đoạn
lịch sử, từ lúc bố tôi đi kháng chiến, bỏ về thành năm 1949, bị ám sát hụt mấy
lần, di cư vào Nam tưởng đã yên nào ngờ lại phải trải qua giai đoạn ghê gớm hơn
sau 30 Tháng Tư năm 1975, nên các cụ có khá nhiều kinh nghiệm đối xử với nhiều
hạng người sau mỗi sự đổi thay. Cụ thường xuyên nhắc nhở tôi rằng, tuy tình
hình xem ra cũng có nhiều thay đổi, nhưng coi chừng “họ vẫn có những dòm chừng
đối với những người mà lý lịch còn nặng nề như tôi”. Cụ nói: “Lý lịch của con
đã đen ngòm như thế trong khi những tên chỉ điểm của công an giăng mắc khắp
nơi, nói năng hay giao tiếp phải cẩn thận chứ không khéo lại khăn gói quả mướp
vào tù lại đấy con à”.
Nhưng
riêng tôi thì tôi nghĩ, khi còn ở trong cái nhà tù nhỏ thấy bốn bức tường nhà tù
sát gần mình quá đâm ớn, nhưng khi ra khỏi nhà tù nhỏ để bước sang nhà tù lớn
hơn, tôi nhận ra ngay rằng sống ngoài đời cũng không hơn gì trong tù, cũng sợ
đủ thứ, cũng bị bóp mồm bóp miệng, cũng bị kỳ thị chứ có khác gì trong tù đâu.
Trong tù cải tạo tôi không gặp sự sợ hãi vô hình, nhưng ra ngoài xã hội muôn
mặt, lúc nào cũng canh cánh trong lòng nỗi lo sợ vô hình. Khi tôi kiếm được
tiền bằng sức lao động của mình, ngồi ăn tô phở, uống một ly nước trà nóng
thơm, hút một điều thuốc lào, tâm hồn lâng lâng nghĩ lại những ngày tháng cũ
đói triền miên trong trại giam, tự nhiên tôi lại cảm thấy sợ nếu một ngày kia
phải quay lại các cánh cổng nhà tù ấy... Nhưng sau đó, tôi áp dụng một phương
thức giống như từng áp dụng nhiều năm trong tù bằng cách chấp nhận những điều
xấu nhất về mình, ăn nói chẳng cần giữ kẽ thì thấy bình tĩnh trở lại, hết sợ
sệt những điều vô hình ấy.
Một
lần, vào chiều ngày 28 Tháng Tư năm 1990, tôi chở Thủ xuống chợ Bà Chiểu để
cùng Tính, Thuận, Cổn, Bái tới ăn tối tại nhà bà dì ruột của Cổn cuối đường Lê
Quang Ðịnh. Nguyễn Văn Cổn, cựu binh nhì Trung Ðoàn 42 Sư Ðoàn 22 Bộ Binh, quê
ở Hoài Ân, Bình Ðịnh. Anh vốn là con của một chủ vựa cá ở Qui Nhơn bị gọi quân
dịch năm 1974. Sau thời gian thụ huấn 9 tuần lễ tại Trung Tâm Huấn Luyện Dục
Mỹ, Cổn được bổ sung về Trung Ðoàn 42. Anh bị thương trong trường hợp đặc biệt
khi di tản từ Pleiku về Nha Trang trên Quốc Lộ 14 hồi Tháng Tư năm 1975. Ðơn vị
của Cổn di chuyển sau cùng bị Cộng quân phục kích bị cắt làm nhiều đoạn. Lính
mới tò te, chưa có kinh nghiệm nên Cổn và một số đồng đội bị bắt. Việt Cộng lúc
đó không mất công mang theo tù binh nên chúng kê súng vào mắt cá của những
người bị bắt nảy cò rồi bỏ lại. Cổn không thoát khỏi số phận ấy. Theo lời kể
của Cổn, khi anh và những đồng đội khác máu ra nhiều, nằm thoi thóp bên vệ
đường thì may mắn một đơn vị Việt Cộng khác đi qua. Thấy những người lính của
đối phương nằm bên đường, máu me tùm lum, mấy người y tá của đơn vị Việt Cộng
này còn chút lòng nhân băng bó cho Cổn rồi gởi xe molotova về Phú Bổn. Cổn bị
cưa cả hai chân. Nằm được vài ngày thì anh bị đuổi ra khỏi bệnh viện quân và
dân y Phú Bổn lúc đó đã bị tiếp quản. Một số người Thượng thương tình mang Cổn
vào trong buôn. Họ sát trùng vết thương bằng cách chỉ dùng mật ong nguyên chất.
Vậy mà vết thương của Cổn không bị nhiễm trùng. Cổn nói: “Không gì sát trùng
tốt hơn mật ong vắt ra từ tổ ong. Người Thượng họ săn sóc vết thương cho em tận
tình nhưng chỉ bằng mật ong mà thôi”.
Bốn
tháng sau ngày di tản, Cổn mới lần mò được về Qui Nhơn. Anh là con trai út duy
nhất trong nhà sau 4 chị gái. Vì thế hoàn cảnh của Cổn tạo ra một nỗi đau đớn
lớn lao như thế nào cho gia đình. Trước khi vào lính, Cổn đã có hôn thê, nhưng
khi anh trở về với đôi chân bị cưa cụt, bên vợ sắp cưới của anh từ hôn. Tôi hỏi
Cổn:
-
Thế cảm tưởng của cậu lúc đó ra sao?
-
Em cho thế cũng là hợp lý, bởi vì em thương tật như thế này ai mà dám gánh nữa.
Chúng em quen nhau từ nhỏ, nên sự chia ly này cũng làm cho mình buồn chứ. Nhưng
thôi, cứ coi đời này như một giấc ngủ trưa.
-
Thế sao cậu bỏ nhà?
-
Chuyện dài anh ơi. Khi mất cả hai chân, em buồn lắm, chỉ muốn tự tử, tính tình
thay đổi khiến cho gia đình em phải sống những năm tháng trần ai vì em. Mấy năm
trước đây em lại nghiện hút. Phát hiện ra, bố mẹ em bắt em phải đi cai. Xong,
em bỏ lên Sài Gòn tự kiếm sống. Như thế này, em cảm thấy thoải mái hơn. Bố mẹ
em buồn lắm, nhưng em nói thẳng là để em tự lập, em không hứa không quay lại
con đường thuốc sái nữa. Em đã giữ lời hứa nên, nên tuy phải kiếm sống vất vả
với tủ đồ chơi bằng nhựa trước trường học, nhưng trong lòng rất thoải mái. Bố
mẹ và các chị của em cũng nguôi ngoai. Ngày mai anh có phải trình diện phường
không?
Tôi
nói có, năm nào chả vậy, cứ đến gần những ngày lễ lớn là chính quyền tập trung
tất cả những cựu công chức, cựu sĩ quan cải tạo về phải tập trung ở phường để
“học tập” chính trị và “lao động xã hội chủ nghĩa”. Nhưng phía sau của những
danh từ tốt đẹp này là để ngăn chúng tôi không làm sảng trong những ngày quan
trọng ấy mà thôi.
(Còn tiếp)
An Pha
(A20 Vũ Ánh)
(Bài viết đăng trong mục “Sổ tay Cựu Chiến Binh” trên báo Người Việt
ngày thứ Ba 26-04-2005)
(Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=37560)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét