1/6/20

Trại tù Xuân Phước



A20 Trần Đình Trụ

CHUYỂN TRẠI

Xe chuyển bánh, tấm bạt phía sau xe đã hạ xuống, chúng tôi chẳng khác gì những người bị bịt mắt được dẫn đi. Ở trong xe, mọi người vẫn nhìn thấy mặt nhau, nhưng hoàn toàn không quan sát gì được ở bên ngoài. Trên xe có một tên công an trang bị vũ khí đạn dược ngồi cạnh tài xế. Chúng tôi ngồi xếp lớp chật ních, không khí trở nên ngột ngạt. Trong xe có một cái sô để cho chúng tôi tiểu tiện. Ai muốn đi tiểu trong lúc xe chạy, chỉ cần đứng dậy mượn cái sô chuyền nhau. Người còng chung dù không bị mót tiểu cũng phải đứng lên khi người kia muốn. Có nghĩa là một người buồn đái hai người phải đi. Tôi còng chung với một anh mà tôi chua hề biết mặt biết tên, nhưng anh ta chắc chắn đã biết tôi.

- Tôi với anh không biết có duyên nợ gì với nhau, mà lại cùng nhau xỏ chung một cái còng như vậy ? Tôi nhìn anh bạn và nói.

- Tôi hân hạnh được còng chung với trung tá, anh bạn trả lời.

30/5/20

Ký ức bỏ quên – Những chuyến đi quên về


A20 nguyễn thanh khiết
  



III. Những chuyến đi quên về


1. Rừng đã phai chưa

Mùa hè, những đụn cát bỗng nhiên nóng hơn, dưới cái nắng tháng tư theo những cơn gió thỉnh thoảng thổi qua khe lá. Đất Bình Thuận quả không thương người, không thương những đứa con da vàng đang giẫy chết trong Rừng Lá. Mưa không về, con Suối Lạnh tang thương phơi những lớp đá cuội dưới đáy, từng tảng rong rêu màu đỏ gạch nổi lều bều trên mặt nước. Con suối chạy ngang qua một thung lũng hẹp dẫn vào trại giam, nơi mà hàng ngàn tù nhân đang chết dở vì thiếu nước.

Buổi chiều, dưới cái nóng như lò lửa sau một ngày chật vật dưới đám lồ ô. Cắt, cưa, đục đẽo, để dựng lên một căn nhà mới nằm bên lộ chính dẫn vào trại.

Khu A của trại giam Z30D, thuộc địa bàn Bình Thuận, Hàm Tân. Căn nhà có cái tên rất tội nghiệp “Nhà hạnh phúc”, đó là nơi thân nhân của những người tù ở khu A làm nơi thăm nuôi, gặp mặt.

22/5/20

Ký ức bỏ quên – Đường đi không đến


A20 nguyễn thanh khiết
  



III. Đường đi không đến

1. Sau ngày tan trận


Tháng 6 năm 1975. Tôi một mình vác ba lô lên núi Bà Đen. Nhà tôi chỉ cách 5 cây số là tới chân núi. Trong thời giao chiến, tất cả những con đường dẫn vào đây toàn mìn bẫy. Ít có ai đơn độc qua những đoạn đường chết chóc rình rập thế này.

Từ đầu tháng 6 năm 1975, người ta đã tháo dỡ mìn và có nhiều đoàn đông người tái tạo lại những chuyến hành hương lên núi Bà Đen. Tôi có mặt trong đám đông này nhưng mục đích của tôi thì khác hẳn. Tôi sẽ qua khỏi chùa Hang, tới núi Phụng, tìm những khu giáp giới với Campuchia như Kà Tum, Khe Dol, thậm chí có thể quan sát đường rừng đi về núi Cậu.

Với tấm bản đồ thu nhỏ của vùng này mà tôi có được từ đống bản đồ hành quân của ba tôi ngày trước. Cắt nó ra theo đúng đường XY của khu vực. Tôi hiên ngang đi hành quân một mình.


13/5/20

Hồi Ký Lê Sáng: “học tập cải tạo”


A20 Lê Sáng

Tháng 5 năm 1975, ngay sau ngày giải phóng, tôi bị đưa đi học tập cải tạo. Năm đầu tiên tôi bị giam ở Khám Chí Hòa, gia đình không được phép thăm nuôi. Thời gian đầu tôi hy vọng chỉ phải bị cải tạo ba tháng vì nghĩ rằng mình không làm chính trị, nhưng sau ba năm vẫn chưa được về tôi đoán rằng có lẽ phải kéo dài đến mười năm. Quả nhiên phải hơn mười ba năm tôi mới được trở về.

10/5/20

Ký ức bỏ quên – Tuổi trẻ điêu linh


A20 nguyễn thanh khiết
  



II. Tuổi trẻ điêu linh

Tôi có một thời tuổi trẻ chẳng hay ho gì lắm, nếu không nói là phải cực lực chê trách nhiều mặt thì đúng hơn. Cái tuổi trẻ trong thời nhiễu nhương, mỗi bước chân đi là đạp trên tang tóc của chiến tranh, tan vỡ trong ý niệm con người, một con người sống đúng với châm ngôn đạo đức và trách nhiệm.


Đất nước chiến tranh, những bậc đàn anh ra đi và nằm xuống nhan nhản ngày một. Trong cái nhìn của chúng tôi thời đó, cái chết treo trên đầu như sợi dây thòng lọng, nó sẽ thắt lại.

Vào một ngày nào đó khi rời bỏ trường học, vĩnh biệt tuổi thơ, ưỡn ngực về thăm nhà trong bộ đồ lính. Nằm xuống, có thể chỉ còn một cái xác mang về cho cha mẹ, cũng có khi mất hẳn không dấu vết trên một chiến trường đang ném binh như vãi đậu ngoài kia, hay mất một chân, một tay, lăn xe về trong thân phận người phế binh của một trận chiến nghe hoài đến nhức nhối. Cuộc chiến chống cộng mỏi mòn.

5/5/20

Ký ức bỏ quên – Thành Gia Định


A20 nguyễn thanh khiết
  



I. Thành Gia Định

 1. Khai trận

Ngày 17 tháng 10 năm 1977. Tôi bị bắt ở quận 4, với những tang chứng không chối cãi - Tổ chức chống chính quyền cộng sản. Nằm ở công an quận 7 ngày, tôi bị đưa lên trại giam T 20, chính là thành Gia Định được xây dựng từ thời Pháp.

Khi được mở băng bịt mắt trên suốt chặng đường từ lúc bước ra khỏi phòng tạm giam ở quận 4. Cái không gian mà tôi thấy được làm tôi muốn ngạt thở. Tiếng cánh cửa sắt đóng sầm thô bạo, tiếng khoá bên ngoài vang lên chói tai, căn biệt giam tối mờ mờ, một ngọn đèn bóng tròn trên tận nóc cao, rọi xuống xuyên qua lớp lưới chống B40, mùi ẩm mốc bốc lên trong khoảng không gian chật hẹp, bít bùng như một trấn áp đầu tiên khiến tù nhân phải sợ. Chắc khoảng gần một phút sau tôi mới trấn tỉnh và quan sát thật kỹ chung quanh.

23/4/20

CÔ GÁI CÙNG CHUYẾN XE



A20 Lê Phi Ô


Thưa Bác… ghế nầy có ai ngồi chưa ạ !

- Thưa…Cô, ghế còn trống.

Tôi vội lấy cái túi đeo lưng (backpack) về phía mình trả ghế trống cho người vừa hỏi. Cô gái… thiếu phụ thì đúng hơn, tuổi khoảng chừng ngoài 30. Nàng ngồi xuống cạnh tôi, hương thơm của mùi nước hoa thoảng nhẹ trong không khí ban mai thật dễ chịu. Đã lâu, hình như lâu lắm mùi nước hoa quen thuộc nầy… nhất thời tôi chưa nhớ ra là tôi được thưởng thức hương thơm nầy từ… đâu.

   Tôi kín đáo nhìn ngang để xem người vừa ngồi có quen biết gì không. Ngoại hình và mái tóc có nét gì đó quen thuộc nhưng gương mặt thì không thể nào nhìn được vì nàng mang một cặp kính mát lớn che cả nửa phần trên của gương mặt nhưng… hình như cũng có một nét gì đó quen quen.

22/3/20

ĐỊA PHƯƠNG QUÂN / NGHĨA QUÂN QLVNCH


VIDEO KHÔNG PHẢI VINH DANH TÔI MÀ VINH DANH TOÀN THỂ ĐỊA PHƯƠNG QUÂN/ NGHĨA QUÂN: 

"Đứa con không được chăm sóc của QLVNCH"  

A20 Lê Phi Ô


ĐỊA PHƯƠNG QUÂN / NGHĨA QUÂN QLVNCH
Thực Hiện: LS. Bích Hà




*
Tôi được biết Luật Sư Phạm Bích Hà là con gái của Thiếu Tướng Phạm Văn Đỗng, Bộ Cựu Chiến Binh VNCH đồng thời là con nuôi của Đại Tá Ngô Văn Định (Đồ Sơn) Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC/VN.



A20 Lê Phi Ô 



28/12/19

Xin Cầu Nguyện

 A20 Nguyễn Đại Thuật

 Thưa cùng quý bạn A.20,

 Hôm nay là ngày lễ Giáng-sinh, anh em chúng ta rải rác khắp nơi trên thế giới cùng chào mừng ngày lễ tôn-giáo này. Có lẽ trong chúng ta cũng có người không theo đạo Thiên chúa, nhưng sự phổ thông của ngày lễ nầy không khỏi  hằn sâu vào tâm trí ta cái giá trị tâm linh mà tôn giáo nầy trao tặng.

Hiện nay anh em chúng ta là những người chỉ có quê hương thứ hai, còn quê hương thứ nhất, quê hương vàng son nhất của một thời tuổi mộng không biết bao giờ có lại được, mặc dầu ai trong chúng ta, bằng cách nầy hay cách khác, dưới cách đấu tranh nầy hay đấu  tranh khác, tích cực trong việc cứu lấy quê hương để được trở về .

24/12/19

GIÁNG SINH TRONG NGỤC TÙ (Lời Nguyện Trong Tù)


Nhạc và lời: Khuất Duy Trác

Trình bày: VŨ TRỌNG KHẢI
Dương cầm: ĐỨC MINH
Vĩ cầm: QUỐC VINH

Có con chim nhỏ trên hàng rào kẽm gai.
Đứng im than thở; cuộc đời còn có ai?
Này chim có biết nơi đây sống kiếp đọa đày,
sống không ngày mai, như kiếp cỏ cây.
Có ngôi sao nhỏ trên bầu trời giá đêm.
Suốt đêm không ngủ thương ngục tù tối đen.
Nhờ sao đem đến tin vui tới khắp mọi người.
Chúa đã giáng sinh cứu rỗi trần ai.

21/12/19

Vĩnh Biệt A20 Ngô Khắc Tỉnh




Cựu Tổng Trưởng Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh

Ông Ngô Khắc Tỉnh sinh năm 1922 tại Phan Rang.
Ông tốt nghiệp với văn bằng Tiến sĩ Dược khoa  Đại học Toulouse ở Pháp.
Từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh Niên thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
Từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng Sản.

Khi ra khỏi trại tù Cộng sản, ông qua Mỹ theo diện ODP được đoàn tụ với gia đình trong tuổi già bóng xế. Ông định cư và sống tại Hoa Kỳ cho đến cuối đời,

Tháng Mười Một năm 2005, cựu Tổng Trưởng Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh qua đời tại San Jose, thọ 82 tuổi.

DIỄN VĂN CỦA ÔNG NGÔ KHẮC TỈNH


DIỄN VĂN CỦA ÔNG NGÔ KHẮC TỈNH
TỔNG TRƯỞNG BỘ VĂN HÓA GIÁO DỤC VÀ THANH NIÊN
ĐỌC TRONG DỊP ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 3518 VÀ
LỄ KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP
VIỆN ĐẠI HỌC VẠN HẠNH
(06 - 5 - 1974)
 
Kính thưa chư tôn Hòa thượng,
Thưa Thượng tọa Viện trưởng,
Thưa Quí vị,

Tôi rất hân hoan đón nhận vinh dự mà Viện Đại Học Vạn Hạnh đãdânh cho tôi, đến chủ tọa lễ kỷ niệm mười năm thành lập Viện ngày hôm nay. Nhân cơ hội này, tôi gửi lời chào mừng chư tôn Hòa thượng, cùng toàn thể liệt Quí vị quan khách.

Thấm thoát mười năm trôi qua. Trong khoảng thời gian qua nhanh như chớp mắt ấy, Viện Đại Học Vạn Hạnh đă thắng lướt không biết bao nhiêu khó khăn, thử thách để trưởng thành và dầndần hoàn tất mục tiêu dự liệu.Với một cơ sở khang trang và đầy đủ phương tiện giảng huấn bậc Đại học như hiện có, cộng thêm những nổ lực không ngừng nhằm kiện toàn chuơng trình giảng dạy, cải thiện lề lối sinh hoạt của sinh viên,

11/12/19

Người Hát Rong Trong Hầm Xe Điện Ngầm

 A20 Nguyễn-Đại-Thuật


 Con tàu TGV nối liền thành-phố Dijon-Paris ngừng tại điểm đến ga Lyon. Phú xuống xe, kéo va-li đi dọc theo hành lang ga, xuống hầm xe điện ngầm để đón xe về khách-sạn.


Chiều thứ sáu, đang là giờ cao-điểm cuối tuần nên hành khách đi lại rất đông. Phú chen đi trong dòng người vội vã, vừa ra khỏi cầu thang cuốn, anh thoáng nghe có tiếng đàn guitar hòa lẫn giọng ca nam nhẹ vang lên trong góc hầm, giọng ca tiếng Việt buồn não, lời bài ca đã lâu lắm anh mới có dip nghe lại:

 

Trời đêm dần tàn, em đến sân ga để tiễn người trai lính về ngàn.

Cầm chắc đôi tay, ghi vào đời tâm-tư ngày nay.

Gió khuya ôi lạnh sao, vấn nhẹ đôi tà áo.

Tàu xa dần rồi, thôi tiếc thương chi khi biết người ra đi vì đời

Trở gót bâng-khuâng em hỏi lòng đêm nay buồn không.

Chuyến xe đêm lạnh không ?  Để người yêu vừa lòng ?

Ngày tháng đợi chờ, em đến sân ga nơi tiễn người trai lính ngày nào

Tàu cũ năm xưa, mang người tình biên khu về chưa ?

Trắng đêm em chờ nghe tiếng tàu đêm tìm về....

 

5/12/19

SỐNG VỚI ĐÀN ANH, KHÔNG PHẢI DỄ.. !



A20 Kiều Công Cự K22

Khóa 22 nhập học ngày 2/12/1965, nhưng phải đợi 5 ngày sau một phái đoàn gồm 52 “nhân tài” của 4 tỉnh Trị -Thiên – Nam – Ngãi, được một chiếc phi cơ quân sự đưa từ Đà Nẵng vào Liên Khương cho đủ túc số 274 người. Thôi thì quí vị “hung thần Khóa 21”, đang huấn luyện khóa 22, đổ cho đủ thứ tội như là các anh biểu tình chống đối, tà tà câu giờ, bạn bè các anh đang thi hành lịnh phạt còn các anh thì đang thảnh thơi.. .. Nhưng “Biệt đoàn B52” vẫn bình tĩnh chấp nhận mọi hình phạt, lắng nghe mọi lời nặng nhẹ… không có gì chống đối hay phản đối (nếu làm ngược lại là chết ngay).. Mà quả thật biệt đoàn này có nhiều nhân tài như Vua Lâm Viên Đỗ Văn Chánh (Quảng Ngãi), thủ khoa Rừng Núi Sình Lầy là Châu Văn Hiền tự Cóc (Huế), hai người thủ Quốc Quân kỳ (có chiều cao nhất khóa) là Trần Đình Thạnh và Phan An (Thừa Thiên). Tội nghiệp Thạnh đã chết trong đợt thảm sát tết Mậu Thân khi cùng người yêu tên Ly về Huế thăm nhà và xin mẹ làm phép cưới. Đặc biệt Huỳnh Văn Thảo (Huế), một trong những người trẻ nhất khóa, đã hy sinh trong khi đi giữ thùng phiếu tại Suối Vàng nhân bầu cử Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Đúng là Thảo đã đến Suối Vàng và không bao giờ muốn trở lại Dương Thế và khóa 22A rất hãnh diện ra trường năm 1967 với cái tên của người bạn mình, Khóa Huỳnh Văn Thảo, và thủ khoa khóa 22B Nguyễn Đức Phống (Huế) cũng là nhân tài của biệt đoàn B52. Phống ra trường sau 4 năm học chọn về Thiết giáp và cũng đã “DA ngựa bọc thây” tại chiến trường Campuchia năm 1970. Khóa 23 ra trường có tên gọi là Khóa Nguyễn Đức Phống. Và còn nhiều nữa kể ra không hết.

1/12/19

Ðại Úy KIỀU CÔNG CỰ




CÔ TÔ là biệt danh của Cựu Đại úy KIỀU CÔNG CỰ .
Anh sinh ngày 18/6/1942 tại thị trấn Ái nghĩa, quận Đại lộc, tỉnh  Quảng Nam.
Học Trường Tiểu học Xuân An (Đà lạt), Trung học Trần Quí Cáp (Hội An) và Đại học Khoa học (Sài gòn). Tình nguyện gia nhập Khóa 22 Trường Võ Bị  Đà-Lạt ngày 22/11/1965 và mãn khóa (Huỳnh Văn Thảo) ngày 2/12/1967 .
Tình nguyện về Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến và được đưa về TĐ2/TQLC có Hậu cứ tại trại Lê Hằng Minh (Tam hà, Thủ Đức). Làm Trung đội trưởng Trung đội 42 thuộc ĐĐ4 của Tr/U Trần Văn Hợp. Rồi ĐĐ phó ĐĐ4, Trưởng ban 3/TĐ và Đại đội trưởng ĐĐ4 ( 12/1969) .
Bị thương tại chiến trường Hạ Lào (1971). Xuất viện chuyển về TĐ9/TQLC của Th/tá Nguyễn Kim Đễ, giữ chức vụ Trưởng ban 3 và Đại đội trưởng ĐĐ1cho đến ngày đi học khóa 5/74 Bộ binh Cao cấp tại Trường Bộ binh ở Long Thành.
Mãn khóa học về làm Trưởng ban 3 /TĐ2/TQLC cho đến ngày 30/4/1975.
Gần 10 năm tù CS qua các trại từ Nam ra Bắc.
Qua Mỹ theo chương trình HO 22 ngày 22/11/1993.
Hiện cùng Gia đình định cư tại Anaheim, Nam California.