Cuốc xe chở một người và hàng hóa từ chợ Bà Chiểu về đến cuối đường Huỳnh Văn Bánh (tức Trương Tấn Bửu cũ nối dài) là 800 đồng. Người khách là một bạn hàng tại chợ Bà Chiểu chất lên xe 6 súc vải cộng thêm với thân hình cũng khá phốp pháp của bà. Tám trăm vào thời điểm ấy cũng đã có được một tô phở kha khá hoặc tương đương với một bữa cơm đạm bạc. Hơn nữa, đây là cuốc xe chiều, định bụng sau cuốc này sẽ về nghỉ, nên cũng chẳng cần hơn thiệt bao nhiêu. Nhưng có lẽ vì đây là chuyến xe đầu tiên tôi chạy con đường này nên không mường tượng được chiều dài của nó. Khi thắng xe trước nhà của bà khách, mắt như muốn nổ đom đóm. Kể từ ngày ra trại mới được gần bốn tháng, sức khỏe chưa phục hồi hẳn, ra nghề này, tôi chưa dám chạy những cuốc xe quá xa. Lau mồ xong, tôi tính giúp bà mang vải vào nhà, nhưng bà khách vội nói:
-
Thôi ông để tôi gọi các cháu nó mang vào cho.
Sau
đó bà rút ví đưa tôi hai tờ giấy một ngàn đồng, cười và nói:
-
Tôi biết ông mới ra nghề và cũng đoán mới cải tạo về làm nghề này nên ngơ ngáo
chưa định được đường chạy và giá cả. Thường tôi thuê người khác thì phải trả từ
một ngàn hai đến một ngàn rưỡi. Nhưng ông cầm lấy số tiền này, biếu ông thêm
năm trăm.
Tôi
đạp xe trở về nhà, lo cơm nước cho mẹ tôi xong rồi đạp xe tà tà đến rạp Cao
Ðồng Hưng, định bụng gặp lại Tính xem tình trạng của anh ra sao. Say rượu, lại
gặp mưa ngày hôm trước, anh ta có thể bịnh được. Hình ảnh của người thương binh
này đã gây cho tôi một hình ảnh mạnh mẽ về thân phận của chúng tôi lúc đó. Thân
phận giống nhau, chỉ khác là tôi còn đủ chân tay và mắt để kiếm kế sinh nhai,
cực nhưng đỡ nhọc nhằn hơn Tính. Còn Tính, hai chân đã mất, anh làm gì để sống?
Rạp
Cao Ðồng Hưng thời đó là rạp chiếu phim thuộc một công ty quốc doanh của nhà
nước. Họ vẫn còn chiếu những phim đại loại như “Ðến Hẹn Lại Lên”. Khách mua vé
vào xem hầu hết là những cặp thanh niên thiếu nữ. Họ mua vé không phải là vào
để xem những cuốn phim loại ấy mà là vào rạp để mượn cái bóng tối cần thiết cho
những cuộc tình vụng trộm. Phía ngoài rạp, nơi hàng hiên là thế giới của những
người tàn phế do chiến tranh hoặc do tai nạn xe cộ. Nhưng trong thế giới đó,
người ta vẫn nhận ra người nào là thương phế binh của chế độ miền Nam, người
nào là thương phế binh của chế độ miền Bắc. Họ cùng để lại những phần thân thể
ngoài mặt trận cho hai thứ chủ nghĩa khác nhau, nhưng cả hai bên cũng có không
ít những người cùng nhận chịu những thân phận của người phải sống trên đường
phố. Chẳng hạn như Tính, một cựu trung sĩ Trung Ðoàn 10 Sư Ðoàn 7 Bộ Binh, cụt
hai chân, ngồi trên một cái đòn có bánh xe (mà Tính thường đùa là chiếc Jeep
lùn), nhưng trên người vẫn là chiếc áo lính còn hằn dấu của cái bảng tên và lon
trung sĩ bị lột ra. Những cựu binh Cộng Sản giải ngũ vì tàn phế cũng vậy. Như
Hoàn mà sau này tôi quen, cựu binh nhất của Sư Ðoàn 325 cụt một chân, cánh tay
phải và mất một mắt, một bên mặt cháy sém còn đầy vết thẹo thì luôn luôn mặc
chiếc áo bộ đội màu cỏ úa. Hoàn chỉ “sang” hơn Tính là ở chỗ anh ta còn có cặp
nạng. Giới thương binh ngồi xe lăn lúc đó (1989) được coi như ngồi xe Cadillac
vậy, nhưng giới này rất hiếm thấy trong các bạn thương phế binh mà tôi quen
biết.
Khi
cặp chiếc xe vào lề đường trước rạp hát, tôi đã nhận ngay ra Tính. Ngồi trên
chiếc đòn có bánh xe, thân mình cuốn chiếc chăn bằng vải nylon màu ngụy trang
của quân đội Mỹ đã cũ mèm với những vết bẩn đã bóng láng chứng tỏ lâu ngày
chiếc mền không được giặt.
Thấy
tôi, Tính chào kiểu nhà binh và nói ngay:
-
Cả đêm qua em lên cơn sốt có lẽ vì uống rượu say trúng mưa. Ông anh bỏ qua cho.
Em không phải là thằng nát vì bia bọt đâu. Chả là khi bán nhang tại đình Phú
Hòa gặp thằng lính cũ làm ăn khá nên bao chầu bia. Quá chén thôi.
Tôi
nói:
-
Cậu thương tật như thế này mà dầm mưa có ngày đi đứt.
-
Ông anh biết đấy, mấy thằng say có khi nào nhận mình là say đâu. Thằng lính em
nó đòi đưa về nhưng em đâu có chịu. Hai thầy trò giằng co mãi, cuối cùng nó để
cho em về một mình. Nếu không có ông anh tử tế vác em về đây, có thể đi đứt lắm
chứ.
-
Thuốc thang gì chưa?
Tính
đáp:
-
Rồi. Em làm một hơi hai gói “thoái nhiệt tán”, ngủ một giấc, bây giờ khỏe rồi.
Em lại hợp loại thuốc bắc này nên lúc nào cũng dự trữ.
Tôi
nói với Tính:
-
Mẹ kiếp, trụ sinh còn chả đi tới đâu nữa là “thối nhiệt tán”. Nó đâu có khác gì
xuyên tâm liên bọn nó phát cho chúng tôi khi còn ở cải tạo. Bệnh chó gì cũng
xuyên tâm liên. Ngày mai nếu cậu không bớt tôi dẫn đến thằng em tôi đang là tu
bíp làm ở Nguyễn Văn Học đây thôi. Cải tạo về nó bị trưng dụng vào làm việc cho
bệnh viện. Thiếu bác sĩ quá. Nó có thể khám và cho cậu thuốc Tây được.
Tính
đáp lại cho qua chuyện:
-
Vâng, cám ơn anh, nếu mai em không bớt.
-
Hút thuốc lào không, tôi có điếu và thuốc Cái Sắn thứ thiệt!
Tính
vui vẻ:
-
Cái gì chứ thứ đó thì nào dám chê mặc dù em chỉ chơi “bốc lăn xe” (thuốc rê).
Tôi
cười:
-
Thế liệu có khi nào chơi cái trắng trắng không?
Tính
nhăn mặt:
-
Ông anh lại hoài nghi em. Thật tình, bọn phế binh chúng em cũng nhiều đứa dính
vào của quỉ ấy, nhưng em thì không.
Miếng
trầu là đầu câu chuyện. Thời đó, chúng tôi thường dùng thuốc lào để khởi sự cho
việc làm quen với nhau. Tôi chạy sang quán cà phê lề đường để kêu cà phê và ghé
xe lấy chiếc điếu cày cùng hộp thuốc lào. Cái điếu cày này làm theo kiểu của
người Mường, nghĩa là bằng một loại tre vỏ mỏng, ngâm bùn lâu ngày, dài nửa
thước, nõ điếu bằng loại rễ cây gáo, một loại cây mọc ở bờ ao hay bờ hồ. Một
người bạn tù đã cho tôi chiếc điếu này để trả công tôi lén dạy Anh văn cho anh
ta lúc chúng tôi còn ở trại Xuân Phước A-20. Chiếc điếu rất đẹp vì phía ngoài
thân điếu có chạm trổ và đánh bóng như sừng. Khi hút điếu kêu rất giòn. Tôi quí
chiếc điếu, nên ngày được thả tôi không để lại được chiếc điếu cho các bạn còn
ở lại. Tác giả của nó đã qua đời. Anh và sáu sĩ quan khác cướp súng trốn trại.
Năm người bị Thượng Cộng đuổi theo bắn chết hết và anh là một trong 5 người bạn
đồng tù can đảm nhưng kém may mắn đó.
Tôi
đưa chiếc điếu cày cho Tính và nói:
-
Cậu chuẩn bị. Một bi chỉ bằng hột đậu đen, hút vào để điếu xuống rồi mới cảm
thấy phê. Coi chừng đập mặt xuống đường đấy.
Tính
hút xong điếu thuốc là sùi bọt mép, tay bắt chuồn chuồn. Tôi vội đỡ Tính không
cho anh chúi đầu xuống. Mấy bạn đồng cảnh với Tính xúm lại đòi hút. Cảnh này
làm tôi nhớ lại những năm tháng cũ trong trại cải tạo, những buổi sáng Mùa Ðông
thức dậy sớm trong buồng giam, chờ giờ mở cửa điểm số, châm một điếu thuốc lào.
Ánh lửa lóe lên, tiếng điếu kêu sòng sọc, thở khói ra từ từ để cho tâm hồn bay
bổng, thênh thang, kéo lại được một chút kỷ niệm cũ những lần hút điếu thuốc là
đầu tiên trong ngày ở Cùa, Ba Lòng, Cửa Việt, Ðông Hà... Những ngày lang thang
ấy đã xa xưa, nhưng nhớ biết bao cho vừa.
Nhâm
nhi cà phê và hút thuốc lào, Tính nói về cuộc đời của mình không bằng cái giọng
khinh bạc. Trái lại anh rất tha thiết với cuộc sống:
-
Lẽ ra em cũng không phải sống ngoài đường phố như vầy. Ngày trước còn có chút
trợ cấp và kiếm thêm bằng cách đi bán vé số cũng tạm sống, cũng có mái nhà che
mưa, che nắng. Gia đình em đi kinh tế mới ở Chơn Thành. Nhưng ở dưới đến người
lành lặn còn không sống được huống chi thương tật như em. Thế là phải trốn về
đây thôi. Bán nhang kiếm chút cháo sống qua ngày. Lúc nào em cũng nghĩ mình ở
hiền thì sẽ gặp lành. Thật ra bán nhang như em cũng chỉ là sống nhờ lòng thương
của những người còn thương những người lính cũ mà thôi. Em biết nhiều người
chẳng có nhu cầu gì về nhang khói, nhưng họ vẫn mua để giúp mình và để tránh
cho bọn em cái mặc cảm là đi ăn xin. Trong số bọn em có nhiều đứa bị em chửi
hoài. Ði bán nhang mà cứ nhè những tiệm ăn đông khách rồi khua nạng bước vào,
để mỗi bàn một thẻ, làm như thu tiền xâu. Em không muốn bị đồng hóa với đám ấy
nên thường đến mấy đình chùa hay nhà quàn để bán. Ðỡ quê hơn và tránh được ngộ
nhận.
An Pha (A20 Vũ Ánh)
(Còn tiếp)
(Bài viết đăng trong mục “Sổ tay Cựu Chiến Binh” trên báo Người Việt
ngày thứ Ba 15-03-2005)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét